An Nam tứ đại khí là gì?

An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo của nước ta thời Lý, Trần bao gồm: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng chùa Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh.

Phật giáo Việt Nam ngàn năm nay còn truyền tụng bốn bảo bối lưu danh kim cổ: An Nam Tứ Đại Khí còn được gọi là Nam Thiên Tứ Bảo Khí, hay Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí, gồm có: tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Ngân Thiên (có tài liệu nói là chuông Quy Điền), và vạc Phổ Minh. Đây được coi là 4 kỳ quan, 4 quốc bảo, 4 công trình nghệ thuật dưới thời Lý, Trần.
Đề cập đến chủ nhân khai sinh “tứ đại khí” này, nhiều văn tự ghi chép không giống nhau, nhưng hầu hết xoay quanh truyền thuyết Thiền sư Minh Không sang Trung Hoa xin đồng về để đúc bảo khí …
Chuông Ngân Thiên
Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng hai năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ). Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa.
Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.

Ảnh minh họa.

Tháp Báo Thiên
Tháp Báo Thiên có tên đầy đủ là Đại thắng tư thiên bảo tháp, được xây dựng vào năm Đinh Dậu 1057, dưới thời Lý Thánh Tông. Tháp cao 70m, có 30 tầng (một số tài liệu khác lại chép 12 tầng). Tháp nằm trong viên tự chùa Sùng Khánh phường Báo Thiên, nay thuộc Hoàn Kiếm Hà Nội.
So với những pháp khí còn lại cũng bị thất lạc thì Tháp Báo Thiên có phần thăng trầm hơn. Năm 1258 đời Trần Thánh Tông, tháp đã bị cháy. Được trùng tu nhưng không lâu sau tháp lại bị sét đánh sạt mất 2 tầng năm Nhân Tuất 1322. Đến năm Bính Tuất 1406 tháp lại bị đổ. Cuối cùng khi quân Minh xâm lược, chúng lại cho quân phá tháp nấu đồng đúc khí giới.
Tháp được liệt vào Tứ đại khí bới số tầng chẵn (12 hoặc 30) biểu hiện sự cân bằng, ổn định (như triều đình nhà Lý, ngụ ý cho sự trường tồn thịnh vượng). Tháp Báo Thiên được đúc bằng đồng có khắc ba chữ Đao Ly Thiên, tỏ ý rằng ý tưởng của đấng tối cao dâng lên hay xông lên trời thẳm. Trên đỉnh tháp còn có bức tượng tiên nhân đứng hứng mưa làm thuốc cho vua. Vì thế có bài ca của các bậc nho sĩ thuật rằng:
Trấn áp đông tây vững đế kỳ
Khuynh  thiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
Kim cổ nan nan lập địa chủng
Tức:
Trấn giữ đông tây vững đế kỳ
Tháp cao sừng sững thật uy nghi
Làm cột trống trời yên đất nước
Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì.

Tháp Báo Thiên một thời là biểu tượng sự bền vững của nhà Lý.


Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm

Truyền rằng chùa Quỳnh Lầm đã từng có hai pho tượng lớn. Do Thiền sư Nguyễn Minh Không tới Trung Quốc mang túi lớn thâu đồng đen về mà đúc thành. Một pho được đúc vào thời Lý do Thiền sư Nguyễn Minh Không phụ trách và một pho khác được đúc vào thời Trần cho Thiền sư Pháp Loa phụ trách. Theo một số tài liệu thì pho tượng đầu tiên thời Lý có chiều cao xấp xỉ 6 trượng (tức gần 20m) là tượng đồng cổ lớn nhất Việt nam, pho tượng lớn đến nỗi người ta phải cho xây tòa điện cao 7 trượng để đặt tượng. Vì lẽ pho tượng lớn vậy mà dân gian còn nhắc rằng, đứng ở phía nam huyện Đông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm chừng 10 dặm vẫn có thể nhìn thấy nóc điện che sát đầu bức tượng. Đủ thấy sự vĩ đại của tượng Phật Thế nào. Có bài ca rằng:
Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi sứ đông
Tháp cao chín đợt màu mây ám
Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng
Trước điện thông reo cùng trúc hóa
Trong am khánh đá với chuông đồng
Pho tượng thứ 2 đúc dưới thời nhà Trần bởi thiền sư Pháp Loa, thiền phái Trúc Lâm. Năm 1327, tượng được đúc xong , năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã lạy vua xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. Lúc ấy, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã công đức cho chùa 900 lượng vàng để dát tượng.
Đây là 2 pho tượng rất hùng vĩ trong giai đoạnh cực thịnh của Phật giáo Việt nam và cũng được xem như niềm tự hào của kiến trúc Đại Việt. Đáng tiếc cả 2 bức tượng đều đã bị quân Minh trong quá trình kéo quân sang xâm chiếm phá bỏ để lấy đồng đúc vũ khí vào thế kỷ 15.

Chùa Quỳnh Lâm lưu giữ những chứng tích Phật giáo - nơi Phật giáo phát triển vinh hiển của quá khứ.

Vạc Phổ Minh
Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.
Vạc sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Hiện nay tại chùa Phổ Minh chỉ còn lại bệ đá kê vạc khi xưa.
Vậy là trải qua thăng trầm của lịch sử, tứ đại khí gắn với bốn ngôi chùa danh tiếng đều chung số phận bị thất lạc và phá hủy. Tuy nhiên chúng vẫn hiện hữu trong các sự tích hiện thời, nhắc nhở con cháu Đại Việt về một thời cực thịnh của Phật giáo và những giá trị tự hào dân tộc mà chúng mang lại.

Tuệ Lâm (Tổng hợp)
spacer

Đình làng kỳ sự: Độc đáo cặp câu đối được Phan Khôi chỉnh sửa

Vốn tính khẳng khái, tác giả bài thơ Tình già - Phan Khôi đã không cả nể khi lên tiếng chỉnh sửa cặp câu đối của Nguyễn Bá Trác tặng cho đình Bảo An (nay thuộc xã Điện Quang, TX.Điện Bàn, Quảng Nam).

Trong quá khứ, đình làng Bảo An từng treo hai câu đối của hai tác giả Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác
ẢNH: HOÀNG SƠN

Bớt hai từ của… quan tổng đốc
Đình Bảo An là di tích lịch sử cấp tỉnh nổi tiếng của vùng Gò Nổi. Theo nhiều tài liệu, đình được xây dựng vào năm 1702 chỉ bằng tranh tre để thờ tiền hiền khai canh, lập địa theo bước chân nam tiến mở mang bờ cõi. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình đã bị hủy hoại nhiều lần và được xây dựng lại vào các năm 1848, 1955.
Năm 2013, đình được khánh thành sau 3 năm trùng tu. Vốn là mảnh đất văn vật bậc nhất xứ Quảng bởi vậy làng Bảo An cũng lưu giữ nhiều câu chuyện về những nhân tài là con em của làng. Một trong những câu chuyện thú vị là cuộc “va chạm” chữ nghĩa giữa Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác.
Đình làng Bảo An được xây dựng lại bề thế
ẢNH: HOÀNG SƠN
Cụ Nguyễn Xuân Sinh (87 tuổi), một người am hiểu chữ nho sinh sống tại làng Bảo An cho biết cụ được những bậc cao niên kể lại rằng sau khi quan Tổng đốc Thanh Hóa Nguyễn Bá Trác tặng 2 câu đối cho làng, Phan Khôi vì không phục đã lên tiếng “chỉnh lại cho chuẩn” để treo trong đình.
Tác giả Lê Thí trong bài Hai câu đối ở đình làng Bảo đã kể lại câu chuyện này. Chuyện kể, khi làm Tổng đốc Thanh Hóa, trong một lần về thăm nhà, Nguyễn Bá Trác được mời đến dự lễ tế ở đình làng.
“Quan Tổng đốc đã đi cho làng một câu đối để treo ở đình với nội dung: Bảo ngã tử tôn lê dân, tam xã phồn xương Diên Phước chỉ/An như Thái Sơn bàn thạch, song giang hoàn nhiễu hộ thần cư”, tác giả Lê Thí viết, thấy câu đối, Phan Khôi lúc này đang ở đình làng liền nói với Nguyễn Bá Trác rằng hai câu này chỉ phù hợp treo ở nhà Nguyễn Bá Trác.
Phan Khôi cho rằng hai câu đối này không đại diện cho cả làng Bảo An. Ông lý giải, vế thứ nhất có chữ Tử tôn là cháu con là chưa rõ và chưa phù hợp. Ở vế thứ hai, vì đã có Thái Sơn nên có thêm chữ Bàn thạch là thừa chữ. Để cặp câu đối vừa gọn, chỉnh hơn, Phan Khôi đã đề nghị bỏ hai từ này.
Theo tác giả Lê Thí, lúc này các chức sắc trong làng đều tỏ ra ái ngại với quan tổng đốc vì lời góp ý quá thẳng của Phan Khôi. Bởi tác giả Tình già chỉ mới đỗ tú tài trong khi đó Nguyễn Bá Trác là cử nhân. Tuy vậy, vì trọng tài năng của Phan Khôi cũng như hiểu được tính cách của ông mà Nguyễn Bá Trác đã chấp thuận sửa lại hai câu đối, trước sự chứng kiến của nhiều người.
Xưa kia, tại ngôi đình này từng treo hai câu đối mà tục lưu truyền Phan Khôi đã chỉnh sửa lại
ẢNH: HOÀNG SƠN
Về sau, hai câu đối được sửa thành: Bảo ngã lê dân, tam xã phồn xương Diên Phước chỉ/An như bàn thạch, song giang hoàn nhiễu hộ thần cư (tạm dịch: Hãy giúp dân ta, ba xã giàu sang Diên Phước ở/Vững như tảng đá, đôi sông ôm kín giữ gìn nơi).
Hai câu đối này được người làng gìn giữ và treo trang trọng trong đình. “Câu chuyện cặp câu đối được sáng tác và hoàn thiện bởi hai tác giả là hai nhân tài được nhiều người già trong làng Bảo An ngày nay lưu truyền. Thế nhưng trải qua các cuộc chiến tranh, đình làng cũng vài lần dựng lại nên hai câu đối này đã biến mất và không được nhắc lại”, cụ Sinh kể.
Người “tìm chữ” cho đình làng
Cụ Nguyễn Xuân Sinh nguyên là một giáo viên, từng dạy học nhiều nơi trước khi về sinh sống trên mảnh đất văn vật nổi tiếng xứ Quảng này. Vì yêu thơ văn chữ nho mà cụ đã không tiếc thời gian tự mày mò tìm hiểu thêm.
Ở làng Bảo An ngày nay, những người như độ tuổi cụ đã hiếm, hiểu chữ nho để “tìm chữ” cho ngôi đình càng hiếm hơn. Bởi vậy, cách đây gần chục năm khi dân làng quyết định đại trùng tu ngôi đình, cụ Sinh đã được Ban trị sự làng mời đứng ra chỉ huy việc xây dựng cho đến cách thờ tự.
Cụ Nguyễn Xuân Sinh (87 tuổi), một người am hiểu chữ nho đã cất công tìm chữ cho ngôi đình
ẢNH: HOÀNG SƠN

“Tôi chỉ nhờ một kỹ sư lên bản vẽ thiết kế phần móng để có kết cấu bền vững. Những phần còn lại, tôi tự tìm hiểu, tham quan các đình làng khác rồi dùng điện thoại chụp lại. Cái gì đẹp thì tôi chỉ cho thợ làm”, cụ Sinh kể.
Trong 3 năm thì xong phần “cốt”. Để tìm phần “hồn” là những câu viết trên hoành phi, liễn đối, cụ Sinh nhiều đêm liền thức trắng “tìm chữ, ghép nghĩa”.
Cụ tiếp lời, khi chưa tu bổ, trong tẩm chính của đình thờ chữ Càn khôn nhưng đây là chữ không phù hợp nên cụ đã tham khảo nhiều người am hiểu và chọn chữ Thần để thờ. Những liễn đối trong đình hiện nay cũng khác trước. “Tôi là tác giả hai câu đối trong tẩm: Bắc địa sơn khê thiên chiếu anh tài cư kiến tạo/Nam thiên đáo xứ địa linh nhân kiệt khởi giang sơn. Đây là hai câu đối cực kỳ quan trọng vì nằm trong tẩm chính. Do vậy, để câu đối chuẩn nhất, tôi đã đi tìm hiểu những người giỏi chữ nho để tham khảo”, cụ Sinh nhớ lại.
Dù tuổi cao sức yếu nhưng cụ vẫn lặn lội tìm gặp nhiều “cao nhân” về chữ nho tại Đại Lộc, Hội An (Quảng Nam) và Hòa Vang (Đà Nẵng) để xin hỏi ý kiến. Kết quả là cụ còn được khen vì hai câu đối hay.

Cụ Sinh là người đã cất công nghiên cứu, tìm hiểu và viết nên hai câu đối ngay cổng đình Bảo An ngày nay
ẢNH: HOÀNG SƠN
Là người có tính cách cẩn thận và mê chữ nghĩa nên trong ngôi đình Bảo An, cụ Sinh đã viết rất nhiều câu đối treo đối xứng các trụ. Đặc biệt, tại hai trụ biểu trước cổng đình, cụ dành để ca ngợi công trạng của các bậc tiền hiền: Khắc xương khuyết hậu tinh thần thừa vĩnh thiên niên/Hữu khai tất tiên công đức hiển lưu vạn thế.
Những người am hiểu chữ nho khi vào ngôi đình cũng rất nể phục trước vế đối hay. Chẳng hạn, bên trong tả ban, cụ Sinh đề chữ Quang tuyền, Dụ hậu với đại ý là những việc tốt để lại cho con cháu. Hay Nhược lâm, Như tại với đại ý không phân biệt ai lớn ai nhỏ. “Đã nói chữ là phải dùng chữ”, cụ Sinh khề khà

Ngôi đình diễn ra nhiều sự kiện quan trọng
Ông Nguyễn Tứ, Phó trưởng ban trị sự làng cho biết ngày 17.8.1945, người dân đã tập trung tại đình Bảo An và chuẩn bị gậy gộc, giáo mác để khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khởi nghĩa thành công, tại sân đình đã diễn ra nhiều sự kiện như Tuần lễ vàng kêu gọi kháng chiến, hũ gạo kháng chiến… “Ông Trần Tống, 1 trong 14 ứng cử viên do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đã đến đến đình làng tuyên truyền, cổ động tổng tuyển cử bàn Quốc hội khóa 1”, ông Tứ cho biết thêm. Làng Bảo An cũng nổi tiếng là quê của Phan Thành Tài, Phan Thanh, Phan Bôi…
Nguồn: thanhnien.vn


spacer
do