VỀ MỘT CHI HỌ LÝ (ĐÌNH BẢNG) Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, THANH HÓA

VỀ MỘT CHI HỌ LÝ (ĐÌNH BẢNG) Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, THANH HÓA

PHẠM THỊ THÙY VINH

Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua và dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long cũng chính là thời kỳ dòng họ Lý ở Đình Bảng chính thức bước lên vũ đài chính trị. Nhà Lý đã có những đóng góp xuất sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nền văn hiến Đại Việt giàu bản sắc văn hóa cũng được bộc lộ rõ nhất từ chính thời đại này. Nhưng sau khi nhà Trần giành Vương triều từ nhà Lý với sự nhường ngôi cho chồng của Lý Chiêu Hoàng, vai trò chính trị của nhà Lý chấm dứt. Dòng họ Lý đã thất tán đi nhiều nơi và có một bộ phận đổi sang họ Nguyễn.
spacer

Bàn về hai chữ “Thiên thư” (天 書) trong bài Nam quốc sơn hà (南 國 山 河)

Lê Văn Quán
Nam quốc sơn hà là bài TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP đầu tiên của nước ta. Nội dung của TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP chủ yếu đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và các dân tộc. Đồng thời, bài Nam quốc sơn hà ra đời cũng là thể hiện hùng khí và sự lớn mạnh của dân tộc ta. Thế mà, hai chữ “thiên thư 天 書” ở trong câu thơ:
“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

截 然 定 分 在 天 書

(Rành rành định phận ở sách trời) (1, tr.181), lại lí giải không ổn. Có ý kiến cho là tác giả bài thơ(*) đã dựa vào tư tưởng “thiên mệnh” (= mệnh trời), trời quyết định mọi sự việc ở đời. Gần đây, trong bài Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, PGS. Bùi Duy Tân đã viết: “Trời ở đây ẩn trên thiên thư… Cả mớ lý luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”,… (2,tr.318).

spacer

BÀI VĂN BIA CỔ TÍCH LINH TỪ BI KÝ Ở NÚI TỬ TRẦM

BÀI VĂN BIA CỔ TÍCH LINH TỪ BI KÝ Ở NÚI TỬ TRẦM (HÀ TÂY) DO NHÀ
SỬ HỌC LÊ TUNG SOẠN

NGUYỄN QUANG HÀ
NGUYỄN QUANG NGỌC
1. Xuất xứ tấm bia và vài nét về tác giả

Tại xóm San, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện còn lưu giữ được tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Bia có chiều cao 1,22m, rộng 1,20m, trong đó trán bia cao 0,24m, chạm hoa văn rồng chầu mặt nguyệt cách điệu, hai diềm bia chạm hoa, dây leo. Bia được dựng trong một am nhỏ có mái che, chữ còn khá rõ nét, viết chân phương, dễ đọc. Bia gồm 22 dòng, mỗi dòng khoảng 50 chữ, tổng cộng hơn 1200 chữ, một bài tựa và một bài minh dài hơn 70 câu (mỗi câu 4 từ). Phần cuối bia là dòng lạc khoản ghi: “Hồng Thuận nhị niên, tuế thứ Canh Ngọ trọng thu, cát nhật, Tiến thận quang lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử giám Tế tửu(1) Tri kinh diên sự thần Lê Tung đẳng phụng sắc soạn”. Nghĩa là: (Ngày tốt, tháng giữa thu [tháng 8] năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 [1510] do Tiến thận Quang Lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn soạn sắc)

Đây là tấm bia mà soạn giả là một nhà sử học nổi tiếng sống cách chúng ta khoảng 500 năm. Nội dung tấm bia cho biết nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI, xung quanh việc Lê Tương Dực (1509 - 1516) lên ngôi. Ngoài ra, nội dung tấm bia còn mô tả về quang cảnh khu di tích núi Trầm thời Lê(2).

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 5

Tư liệu: Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh -Tốn-Tố-Khôi” – Bài 5
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Trí thức thế hệ 2: Vẫn câu hỏi ĐỘC LẬP và CANH TÂN – cái gì trước?
Phan Chu Trinh và phong trào Duy Tân
Ảnh hưởng quyết định của Tân Thư
“Tân Thư” (sách mới) thực ra là những sách có từ lâu bên châu Âu, nhưng lại rất mới với châu Á và Việt Nam. Sách chủ yếu trong tân thư là các tác phẩm của Montesquieu (Mạnh Đức Tư Cưu, 1689-1775) và J. Rousseau (Lư Thoa, 1712-1778); rồi các sách ra đời muộn hơn của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu và một số tác giả Nhật.
spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 4

Tư liệu:  Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 4
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Trí thức nước ta và việc chọn ý thức hệ

Quân Pháp xâm lược Bắc Kì, trận chiếm thành Hải Dương .

Năm 1906 lần đầu tiên trên tiêu đề của một bài báo (ở Pháp) xuất hiện từ mới toanh, trước đó chưa hề có: “trí thức”. Từ này dành cho nhà văn Zola vì hành động cao cả và dũng cảm của ông. Cụ thể, ông đã lên tiếng phản đối, và phản đối tới cùng, một bản án bất công do giới quyền lực áp đặt cho một nghi can là người Do Thái. Trớ trêu, dư luận xã hội – do kỳ thị chủng tộc – đã nhiệt liệt ủng hộ bản án phi nghĩa này. Nhà văn rất ý thức về sự nguy hiểm cho bản thân, nhưng ông trọng công lý và sự thật hơn lợi ích riêng. Sau mấy năm chịu đựng sự đàn áp, Zola đã thắng và trở thành một biểu tượng của trí thức. Thế là, khái niệm trí thức ra đời. Tuy nhiên, dẫu trước năm 1906 kho từ vựng chưa có từ “trí thức”, nhưng đã có sẵn rất nhiều danh từ để chỉ “người có học” (ví dụ, nhà bác học, nhà khoa học, học giả, nhà văn, nghệ sĩ, tiến sĩ…). Dù sao, họ chưa phải là trí thức. Nhưng nếu một người “có học” – ngoài chuyện hành nghề theo chuyên môn – còn vạch ra những bất cập và bất công của xã hội, đề xuất các biện pháp giải quyết (nay gọi là phản biện), ông ta trở thành trí thức (trí tuệ và thức tỉnh). Hoạt động xã hội của trí thức, đều – gián tiếp hay trực tiếp – có tác dụng nâng cao dân trí. Đúng ra, trước 1906 đã có nhiều nhân vật mà phẩm chất cao đẹp không kém Zola. Có điều, thời xưa chưa có từ ngữ thích hợp để gọi họ mà thôi.

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 3

Tư liệu: Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 3
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh


Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi
Yukichi Fukuzawa
Wikipedia đã nêu rất đủ về Nguyễn Trường Tộ  Fukuzawa Yukichi (xin gọi tắt là cụ Nguyễn và cụ Fuku). Để so sánh, ai cũng nhận ra: Cả hai cụ sinh cùng thời, cùng đề xướng cải cách, nhưng một cụ thất bại, cụ kia thành công. Chỉ cần gõ hai cụm từ “nguyễn trường tộ” và “fuku yukichi” ta sẽ được google cung cấp hàng ngàn kết quả, trong đó không thiếu những so sánh cụ thể, chi tiết, để tìm ra nguyên nhân thất bại và thành công.
spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 2

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 2
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh


Bài 2: Nguyễn Trường Tộ trao lại những gì?
Số phận các bản điều trần

Nói chung, chúng không được thực hiện vì không đủ cả thời gian lẫn điều kiện. Nhưng bao trùm lên tất cả là vua Tự Đức không thể dứt bỏ ý thức hệ Nho Giáo, mặc dù đến lúc ấy đã trở thành phản động khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đua nhau tìm kiếm thị trường và thuộc địa.
Nguyễn Trường Tộ

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 1

Tư liệu : Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ  “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 1.
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Ba thế hệ trí thức với hoài bão nâng cao dân trí:  Cụ Nguyễn Trường Tộ và “bộ ngũ” sống cách nhau tới hai thế hệ. Trong khoảng thời gian 50 hoặc 60 năm ấy, chen vào giữa họ, là thế hệ các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Không ai thật sự có quyền lực trong tay. Các cụ được trọng vọng là do những gì tích lũy trong óc. Có uy tín là nhờ thái độ đối với xã hội, nhân quần. Sản phẩm của mỗi người đều chỉ là những suy nghĩ, do tự mình thể hiện trên giấy – mà không thể nhờ vả làm giúp, hoặc sai bảo ai làm thay…

Tất cả các vị này đều sinh ra từ thế kỷ 19 – cách nay hàng trăm năm, nhưng các vị đều là trí thức đúng nghĩa – mặc dù đầu thế kỷ 20 mới có khái niệm “trí thức“ để có thể phân loại “người có học” khác trí thức ở chỗ nào. Đó là những người vừa “có học” lại vừa có tư duy phản biện xã hội. Chính do tư duy phản biện, họ bị chế độ thực dân và phong kiến – nói chung là những chế độ độc tài – kỳ thị, cảnh giác, kể cả lên án, thậm chí bị lên án từ nhiều phía. Nhưng tất cả đều bất khuất và sử dụng phương thức phù hợp để thể hiện lòng yêu nước và thực hiện hoài bão nâng cao dân trí. Thời nay, con cháu Phan Chu Trinh và “bộ ngũ” – thế hệ thữ năm – vẫn tiếp tục sự nghiệp cha ông.


spacer

Giả thuyết mới về Chánh cung Hoàng hậu vua Quang Trung

Lâu nay, sử liệu ghi nhận Chánh cung Hoàng hậu của vua Quang Trung quê gốc ở Quy Nhơn, nhưng tư liệu vừa tìm thấy ở Quảng Nam đã đặt giả thuyết mới về thân phận và quê quán vị hoàng hậu này.

Gia phả lập năm 1927 có ghi “Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy” - Ảnh: C.T.V
spacer

Khu mộ hơn 200 năm của danh thần triều Nguyễn giữa Sài Gòn

Lăng Bình Giang Quận công Võ Di Nguy tọa lạc tại số 19 Cô Giang (gần ngã tư Phú Nhuận, TP.HCM). Từ khi được an táng đến nay đã hơn 214 năm nhưng ngôi mộ vẫn giữ được nét uy nghi, đường bệ của bậc đệ nhất công thần, đồng thời tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ cổ ở Nam bộ. Bộ VH-TT đã ra quyết định công nhận đây là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Lăng Bình Giang Quận công Võ Di Nguy gồm phần tiền mộ (bình phong tiền, sân tế) và phần mộ (cửa mộ, bàn hương án, mộ và bình phong hậu)
spacer

Mộ các danh thần ở Sài Gòn - 3 ngôi mộ của danh tướng Võ Tánh

Theo tục lệ dân gian, khi một người chết mất xác hoặc vì lý do nào đó mà người ta phải tạo mộ giả (mộ gió) để hương khói, thờ cúng là chuyện bình thường. Nhưng một vị tướng mà có đến 3 ngôi mộ thì quả là chuyện hiếm.

Mộ gió của Võ Tánh ở Q.Phú Nhuận - Ảnh: H.Đ.N
“Dũng” và “nhân” của đạo làm tướng
Sử liệu ghi Võ Tánh người gốc Biên Hòa, năm 1788 ông theo phò Nguyễn Ánh, được Nguyễn vương gả em gái là công chúa Ngọc Du. Ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Năm 1799, ông cùng Nguyễn Huỳnh Đức theo chúa Nguyễn tiến chiếm thành Quy Nhơn. Chúa Nguyễn đổi tên là thành Bình Định, giao cho Võ Tánh và Lễ bộ Tham tri Ngô Tùng Châu coi giữ còn chúa rút đại quân về Gia Định.

spacer

Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Lăng Bình Giang Quận công Võ Di Nguy

Những ngôi mộ của các danh thần triều Nguyễn nằm lặng lẽ tại đất Sài Gòn. Trong số những ngôi mộ cổ có tuổi đời trên dưới 200 năm đó, một số được gìn giữ, thờ cúng, nhưng có cái đã thành phế tích.
Toàn cảnh khu mộ Quận công Võ Di Nguy - Ảnh: H.Đ.N
Đệ nhất công thần
Từ đường Phan Đình Phùng rẽ vào Cô Giang (gần ngã tư Phú Nhuận), ngay đầu đường có tấm biển lớn treo trên cao như cổng chào, ghi hàng chữ “Đền Phú Trung Bình Giang Quận công Võ Di Nguy”.
Trong các cận thần của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) thì Võ Di Nguy là người phò tá sớm nhất, ông theo giúp Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1751 - 1777, chú ruột của Nguyễn Ánh), rồi theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn và cũng tử trận sớm hơn nhiều công thần khác (ông mất ngày 27.2.1801) khi cuộc chiến với Tây Sơn bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, trước khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lên ngôi vua (1802). Thi hài Võ Di Nguy được chuyển về Gia Định. Chi phí cho tang lễ rất lớn.

spacer

Thư họa Trần văn Đường


Phúc

lộc

spacer

Tìm lại huy hoàng kỳ 3.3: Lý Triều Quốc Sư – vị tứ bất tử lưu dấu ấn của Phật Pháp tại nhân gian

Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Chùa Bái Đính, Ninh Bình.
Trong các phần trước của loạt bài “Tìm lại huy hoàng”, chúng ta đã đi qua các câu chuyện về các vị “Tứ bất tử” của Việt Nam.
spacer

“Tìm lại huy hoàng” phần 3.2: Tiên giới thánh duyên Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.


Từ trước tới nay, câu chuyện cổ tích giản lược về Chử Đồng Tử và Tiên Dung thường hay làm dấy lên những thắc mắc trong lòng người đọc như: Tại sao công chúa Tiên Dung lại dám tự ý kết duyên không theo lệnh vua cha? Một câu chuyện gặp nhau trong phòng tắm ngoài trời, có gì đáng để lưu lại ngàn đời và trở thành một trong tứ bất tử ở Việt Nam?
Đó là bởi vì những gì tinh túy nhất, thâm sâu nhất đã bị giản lược đi, chỉ để lại hiện tượng bề mặt đọc qua thấy trần trụi và thô tục. Người đời sau không biết lại tiếp tục gán cho huyền sử này một ý nghĩa “quyền tự do yêu đương” theo nhu cầu của con người hiện đại.
spacer

“Tìm lại huy hoàng” phần 3.1: Ba lần chuyển sinh của Tiên Chúa Liễu Hạnh

“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Nguồn ảnh internet

Liễu Hạnh Tiên Chúa (thời Hậu Lê) vốn là con gái thứ 2 của Ngọc Hoàng Thượng Đế, 3 lần giáng trần để ngàn đời được tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật.

spacer

“Tìm lại huy hoàng”: Tứ bất tử của Việt Nam, họ là ai?

“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Gia Phả
nguồn ảnh internet

Người xưa quan niệm rằng: phàm là những ai được lưu danh trong sử sách, thì đều là đã được Thần an bài điều đó với mục đích lưu lại lịch sử văn hóa nhân loại, giáo dục con người đời sau không quên nguồn cội và các giá trị đạo đức nhân sinh. Trước khi trở thành những vị Thánh nhân, những vị Thần Tiên như trong sử sách và các câu chuyện cổ, những vị ấy cũng đã từng một lúc nào đó làm người, đóng các vai trò khác nhau trong xã hội như một người mẹ, một người vợ, một người con… Thế nhưng, theo chuyện kể, trước khi hạ thế làm người, họ vốn dĩ đã là Thần Tiên trên thiên thượng rồi. Vậy ý nghĩa của việc này là gì?
“Tứ bất tử” của Việt Nam đã định ra nền tảng văn hóa tín ngưỡng Phật Đạo Thần và đạo lý làm người.
Tiếp theo phần 1 và phần 2 về nguồn gốc loài người và lịch sử hình thành đất Việt, con cái của Lạc Long Quân và Âu Cơ là các vị vua Hùng dựng lập đất nước, dạy người dân biết làm nương, làm rẫy, nấu cơm, thổi lửa, dựng vợ, gả chồng…, những kỹ năng cần thiết để sinh tồn và bảo toàn nòi giống. Tiếp theo đó, con người còn cần phải học những gì?

spacer

Ấn triều Trần treo ở đâu cho đúng

Nhiều người xin được lộc ấn triều Trần nhưng sử dụng thế nào cho hợp cách, đúng phong thủy cũng như tâm linh thì ít người để ý. Thông thường mọi người hay đặt hay treo lên bàn thờ, như vậy là sai lầm. Nếu để lên bàn thờ thì sẽ là thờ ấn, chứ không phải thờ ông bà tổ tiên. Ngoài ra, để ấn lên bàn thờ sẽ không phù hợp theo tâm linh, cũng như trường khí.

1. Kiểm tra, xác định trường khí
Trường khí dương là trường khí tốt cho con người, giúp cơ thể minh mẫn, sảng khoái, làm việc hiệu quả hơn. Trường khí âm là trường khí xấu, do máy đo báo. Khi có trường khí âm, con người tiếp xúc nhiều sẽ hay đau đầu, tâm lý không ổn định, dễ cáu gắt, khó tập trung, hay nôn nóng… Từ đó ảnh hưởng xấu đến hành vi, học tập hay công việc.

Dán ấn ở chính Bắc, ở gần két để hỗ trợ tăng tài lộc. Ảnh: Mạnh Linh.
Ở phòng thí nghiệm, kiểm tra năng lượng trường khí của 10 mẫu ấn mới nhất cho thấy:
- Đặt nằm ngang trên bàn, năng lượng ở mức bình thường, trong đó 3 trường hợp âm, 7 trường hợp dương.
- Khi gấp lại, cả 10 ấn đều có trường khí âm rất mạnh.
- Dán lên tường, trường khí dương tăng cao, không có trường khí âm.
Kiểm tra thêm các mẫu khác, khi gấp đều có trường khí âm; nếu dán thẳng đều chuyển thành trường khí dương.
- Nếu đo trường khí, thông qua phổ màu cho thấy năng lượng thích hợp nhiều cho hệ miễn dịch và thần kinh, tăng cường sức sống. Đo bằng thiết bị điện từ trường, trường khí trung bình của ấn từ 400 đến 430 MHz. Điều này cho thấy ấn triều Trần có thể dùng trong phong thủy.

2. Cách dùng cụ thể
- Không nên: Không đặt lên bàn thờ, như đã nói ở trên. Không dán hướng vào nhà vệ sinh, dán trên tường nhà vệ sinh. Không gấp để trên bàn, càng không nên gấp để ví, để trên ôtô, vì có trường khí âm dễ gây ra sự cố khi đi lại.
- Nên: Dán trên tường hoặc đóng trong khung ảnh treo lên tường. Nếu không quan tâm đến phong thủy, bạn có thể treo gần vị trí làm việc. Đặt tại cơ quan hay phòng làm việc ở nhà đều được. Nên hướng vào mình, hay hướng vào tủ sách, hoặc có thể hướng ra cửa.
Nếu muốn sử dụng hiệu quả hơn theo phong thủy, tùy theo mục đích sử dụng mà dán ở các vị trí khác nhau, như năm 2015 để tăng tài lộc thì dán ấn ở chính Bắc, nếu để hỗ trợ nghề nghiệp, học hành dán ở Tây Bắc.

Nguyễn Mạnh Linh 
spacer

Lăng mộ 'ông nội vua nước Việt'

Khu di tích Gò Lăng (ở thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, H.Tây Sơn, Bình Định) được các nhà nghiên cứu và người dân địa phương nghi ngờ là khu lăng mộ của nhà Tây Sơn.

Ông Mai Văn Châu bên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn đang bị hoang phế

spacer

Giải mã: Kho báu bị yểm bùa ở đảo Lý Sơn

Những dấu tích của vua Lê ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) dù không nhiều nhưng có nhiều nét độc đáo, đặc biệt là nằm trong sự xâu chuỗi mối quan hệ với người Chăm. Có thể từng có nhiều người Chăm được tham gia đội quân thân cận của vua Lê. Cùng với đó là chuyện về kho báu bị yểm bùa của người Chăm (hay còn gọi là người Hời) vẫn còn như tươi mới trong tâm trí nhiều bậc cao niên nơi đây. Nhiều bí ẩn vẫn chưa được vén mở.

Núi Hòn Tươi, nơi được cho là chứa kho báu

spacer

Thực hư con sông làm đứt mạch đế vương và những lý giải dưới góc nhìn khoa học - Kỳ 3

Các tài liệu chép về phong thủy ngôi huyệt đế vương nhà Trần có đề cập tới một con sông bí ẩn. Tương truyền rằng, vì đào con sông này mà long mạch nơi đây bị phạm, dẫn đến sự sụp đổ của nhà Trần. Hiện nay, có ý kiến tranh cãi rằng, con sông này là do Hồ Quý Ly thực hiện để phá long mạch. Một ý kiến nữa lại cho rằng, việc này là do thầy phong thủy trả thù. Vậy thực hư câu chuyện này ra sao?

Cổng lớn đi vào khu lăng mộ các vua Trần tại Thái Bình ngày nay.

spacer

Vén màn bí ẩn ngôi huyệt đế vương và những dấu tích còn lại - kỳ 2

Giai thoại phát tích của nhà Trần vẫn là một câu chuyện chưa đến hồi ngã ngũ. Sử sách ghi chép rất rõ ràng các sự kiện, nhưng trong dân gian lại tồn tại quá nhiều thuyết khác nhau. Thậm chí, trong một tài liệu chính thống cũng ghi chép về những câu chuyện đầy huyền hoặc này.

Ba ngôi mộ lớn được cho là phần mộ của vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông tại Thái Bình ngày nay (ảnh tư liệu).
Vậy đằng sau vẻ bí ẩn của ngôi huyệt quý kia là gì? Chúng ta có thể thấy gì nếu soi chiếu dưới cái nhìn khoa học về hiện tượng phi khoa học này?

spacer

Giai thoại về ngôi huyệt phát tích nhà Trần và thực hư con sông làm đứt long mạch đế vương

Hiện nay, tư liệu còn lưu lại hai thuyết chính nói về ngôi huyệt phát tích nhà Trần. Một thuyết nói rằng, ngôi huyệt phát kết là do thầy phong thủy Tàu đặt đất. Thuyết nữa thì nói rằng ngôi huyệt do thầy phong thủy bí ẩn người Việt tìm thấy. Vậy thầy phong thủy nào trong số hai người trên mới đích thực là “chân nhân”, góp phần tạo nên một trong những vương triều lẫy lừng bậc nhất trong lịch sử?

Đền thờ các vua Trần tại Thái Bình ngày nay.

spacer

NHO GIÁO VIỆT NAM VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

Chương 1
KHÁI QUÁT VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRIẾT HỌC NHO GIA

1.1      Khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử  (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước.

Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng  - vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương -  ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.

            Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì trệ.

spacer

Bí ẩn ngọn núi 'lạ' có 11 ngôi đền 'giữ kho báu'

Hàng chục năm qua người dân xóm Đông Sơn (huyện Đô Lương, Nghệ An) vẫn thường rỉ tai nhau về những câu chuyện bí ẩn xung quanh 11 ngôi đền “lạ” ở trên núi Đền.
Cho đến bây giờ người dân nơi đây vẫn chưa lý giải được những ngôi đền đó thờ vị thần nào và vì sao trên một ngọn núi nhỏ lại có tới 11 ngôi đền thiêng?!

Những ngôi đền giữ của?

Trong một lần ghé thăm những ngôi đền này, chúng tôi đã được nghe người dân kể lại rất nhiều giai thoại từng xảy ra tại vùng đất này. Họ kể rằng, người trồng cây lên địa phận đền, người trộm cành cây ở đền,... cũng bị “ngài” trừng phạt. Người phàm tục nếu “phạm” đến sự linh thiêng của đền phải dâng hương cầu khấn “ngài” mới chịu tha cho?

Những câu chuyện nhuốm màu sắc tâm linh quanh 11 ngôi đền khiến cho người dân nơi đây ai cũng phải sùng bái. Có nhiều gia đình còn xin đưa về trong khu vườn của mình để thờ cúng.
Được biết, núi Đền nằm trên địa bàn xóm Đông Sơn, xã Giang Sơn Đông có địa hình núi thoai thoải, diện tích khoảng 4 hecta. Theo truyền thuyết kể lại khu vực núi Đền được người Tàu chọn làm địa điểm chôn cất kho báu.

Hai trong số những ngôi đền trên núi  Trước kia do địa hình hoang vu, cây cối rậm rạp, ít người lui tới nên việc xuất hiện nhiều ngôi đền “lạ” khiến cho người dân rất ngạc nhiên. Bà Thái Thị Phấn (86 tuổi) cho biết: “Không biết ngôi đền này có từ bao giờ nhưng từ khi sinh ra, tôi đã thấy nó ở đó rồi. Nghe ông bà kể lại người Tàu xây dựng nó để giữ kho báu.
Trong 11 ngôi đền, ngôi đền Cả có diện tích và cấu trúc lớn nhất. Nó được thiết kế khá đặc biệt, có khắc những hoa văn khá tinh tế. Các ngôi đền còn lại đều có kết cấu y hệt nhau, cùng có hình dạng ô vuông chỉ có một gian, cao khoảng 2m, được làm bằng gỗ lim và gỗ mít, phía trên lợp ngói.
Mỗi ngôi đền đều chia làm hai tầng, tương tự như kiểu nhà sàn. Phần dưới chỉ có bốn cột dựng để chống đỡ. Phía trên được đóng ván kín 3 phía, phía trước cửa mở, bên trong đặt bài vị, bát hương, trong các đền nhỏ còn đặt hai thanh đao”. 

bí ẩn ngôi đền giữ kho báo
Hai trong số những ngôi đền trên núi 
Trước kia do địa hình hoang vu, cây cối rậm rạp, ít người lui tới nên việc xuất hiện nhiều ngôi đền “lạ” khiến cho người dân rất ngạc nhiên. Bà Thái Thị Phấn (86 tuổi) cho biết: “Không biết ngôi đền này có từ bao giờ nhưng từ khi sinh ra, tôi đã thấy nó ở đó rồi. Nghe ông bà kể lại người Tàu xây dựng nó để giữ kho báu. 

Trong 11 ngôi đền, ngôi đền Cả có diện tích và cấu trúc lớn nhất. Nó được thiết kế khá đặc biệt, có khắc những hoa văn khá tinh tế. Các ngôi đền còn lại đều có kết cấu y hệt nhau, cùng có hình dạng ô vuông chỉ có một gian, cao khoảng 2m, được làm bằng gỗ lim và gỗ mít, phía trên lợp ngói. 

Mỗi ngôi đền đều chia làm hai tầng, tương tự như kiểu nhà sàn. Phần dưới chỉ có bốn cột dựng để chống đỡ. Phía trên được đóng ván kín 3 phía, phía trước cửa mở, bên trong đặt bài vị, bát hương, trong các đền nhỏ còn đặt hai thanh đao”. 

Theo người xưa phỏng đoán, những ngôi đền do người thời xưa xây dựng lên để giữ kho báu. Trong các đền đều có một bức tượng hình con chó rất to được đúc bằng gỗ, rỗng bụng. Họ cho rằng chó là biểu tượng của “thần giữ của” hay còn gọi là “thần khuyển”. Khi đổ nước vào, nước sẽ phun ra từ miệng của con chó và đổ xuống đất trúng chỗ nào thì đó là điểm chôn vàng bạc châu báu(?). 

Trước kia, có một nhóm người đã đến đây làm lễ cúng bái mấy ngày liền. Sợ họ đào kho báu vàng bạc đi, người dân đã xua đuổi nhóm người này. Vì không lấy được của cải, họ đã tàn phá những ngôi đền. Do không có điều kiện nên người dân không tôn tạo nó nữa. Có một thời gian những ngôi đền này đã bị lãng quên vì không có ai sinh sống ở đó. 

Truyền thuyết bí ẩn và linh thiêng 

Khi người dân bắt đầu tràn vào khu vực núi Đền khai hoang làm nơi sinh sống và sản xuất, họ mới bắt đầu để ý những ngôi đền này. Điều kỳ lạ, những hộ dân đó chỉ sống được một vài năm thì phải di dời đi chỗ khác vì “ngài” không cho ở. Nghĩ rằng các ngôi đền này linh thiêng, những người đến sau kinh nghiệm hơn trước khi ở đều làm lễ thắp hương cúng vái thì làm ăn rất phát đạt. 

“Không biết đó là sự thật hay là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Những người nào “sùng” và làm lễ dâng hương thì “ngài” cho ở lại. Còn những hộ gia đình nào không làm lễ cầu khấn thì hàng đêm “ngài” báo mộng và trừng phạt, buộc phải đi khỏi làng”, bà Phấn cho biết thêm. 

Kể từ đó, người dân nơi đây ngày càng tin vào sự linh thiêng của núi Đền. Có người thấy được sự linh thiêng này đã xin đưa đền về trong nhà để “chăm sóc” và thờ phụng mong nhận được sự bình yên. Theo người dân kể lại, bà Đính - người dân xóm Đông Sơn cách đây mấy năm lên núi cải tạo đất để trồng cây củ đậu. 

Trong quá trình cuốc đất, bà phát hiện nhiều lớp gạch ngói mới biết đó là nền cũ của một trong những ngôi đền trước đây. Nghĩ người ta đã di dời đền đến chỗ khác, không ảnh hưởng gì nên bà vẫn tiếp tục bón phân và gieo hạt xuống. Tối về bà bỗng dưng đau bụng, đau đầu uống thuốc gì cũng không khỏi. Hai ngày sau, bà Đính được “ngài” báo mộng rằng bà đã mạo phạm đến đền thiêng. Người nhà của bà phải lên vườn dọn lớp phân đã bón và làm lễ dâng hương, bà mới khỏi bệnh. 

Không những thế, cách đây khoảng mười năm, có một thanh niên ở làng bên thấy cây sanh ở cạnh đền đẹp nên xin bà Đính về trồng nhưng không được bà đồng ý. Tối hôm đó, anh ta đã đến nhổ trộm đưa về nhà mình trồng. Sau đó, anh ta tự nhiên bị những biểu hiện đau bụng, đau đầu giống như bà Đính. Nghe người ta mách nước, thanh niên này đã mang nhành cây đến trả chỗ cũ và thắp hương cầu vái mới được yên ổn. 

“Một trong 11 ngôi đền đó được cha tôi đưa về nhà để thờ cúng. Ngôi đền đó rất linh thiêng. Có hôm do thời tiết quá nắng nóng nên cha tôi đã trải chiếu trước đền để nằm. Nhưng nằm được một tý, cha phải chạy đi. Khi hỏi vì sao cha không nằm ở đó nữa, cha tôi nói, vừa chợp mắt thì “ngài” đã hiện về đuổi đi(?). Không những thế, trước đây ông Hồng Định, người trong làng cũng bị ốm “thập tử nhất sinh”, đi khám khắp nơi không ra bệnh gì. Một hôm ông làm lễ thắp hương xin “ngài”, hôm sau lập tức khỏi ốm ngay và khỏe mạnh cho đến bây giờ”, bà Phấn kể về sự linh thiêng của ngôi đền. 

Vào tháng 4/2014, người dân trong vùng đã quyên góp được 40 triệu đồng để xây lại ngôi đền Cả. Nhiều người đi làm ăn xa xứ tin rằng nhờ có “ngài” ở ngôi đền phù hộ nên cuộc sống của họ khấm khá hơn. Và thật kỳ lạ, từ khi tu tạo lại đền, người dân trong làng không còn gặp điều xui xẻo nữa”, ông Hồ Xuân Lam (54 tuổi) - người trực tiếp xây dựng, tu tạo ngôi đền cho biết. 

Mặc dù, người dân tôn sùng và trùng tu lại nhưng trên thực tế họ không biết chính xác những ngôi đền này thờ cúng ai. Có người bảo rằng, đền thờ “thần khuyển” nhưng có người lại cho rằng thờ các thiên thần cung nữ. 

Là Trưởng ban thờ cúng 11 ngôi đền nhiều năm nay, ông Lê Hồng Châu cho biết: “Lúc trước, nghe người xưa phỏng đoán có thể thờ “thần khuyển” để giữ của. Nhưng gần đây, nhiều người dân trong làng lại cho rằng những ngôi đền này thờ Bạch Y công chúa. Vì vậy, trên thực tế chúng tôi cũng không biết chính xác ngôi đền này thờ phụng ai nhưng rất linh thiêng”. 

Truyền thuyết ghi lại rằng Bạch Y công chúa cũng chính là Mẫu Thượng ngàn – là Thiên thần đã được nhân dân thần hóa, lịch sử hóa, luôn trông nom, thuần hóa muôn loài chốn rừng xanh, luôn giúp đỡ, phù trợ các anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ biên cương bờ cõi. Họ thờ thần Bạch Y để cầu được phù trợ, được bình an, tránh được rủi ro, tai nạn và được ban phúc, ban lộc. Vì vậy, ở nhiều nơi, người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Ông Châu cho rằng, có thể ngày xưa người Tàu xây dựng để thờ bà. 
Ông Nguyễn Trọng Tuấn - Chủ tịch xã Giang Sơn Đông cho biết: “Những ngôi đền này đã tồn tại hàng trăm năm nay. Trước đây, không có ai thờ cúng gì cả nhưng thời gian gần đây người dân đến thắp hương cầu an ngày càng nhiều hơn. Mới đây, dân trong vùng có góp tiền xây dựng lại ngôi đền Cả. Hiện những ngôi đền này chưa đủ điều kiện để lập hồ sơ công nhận di sản văn hóa. Còn những câu chuyện mang tính tâm linh người dân bị “ngài” trừng phạt thì không ai có thể khẳng định được. Đó cũng có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi”.
Nguồn: vtc. vn
spacer

Nhận xét về “An Nam đại quốc họa đồ”

Tên bản đồ này được ghi trân trọng bằng chữ Hán 安南大國畫圖 và bằng chữ quốc ngữ:An Nam đại quốc họa đồ và dịch ra tiếng LaTinh là Tabula Geographica imperii Anamitici.Nguyên bản họa đồ khá lớn, ngang 40, dọc 80cm, ấn hành theo cuốnNam Việt dương hiệp tự vị ( Dictionarium Anamitico – Latinum) mà tác giả là Giám mục Taberd, xuất bản tại Serampore (Ấn Độ) năm 1838.      Jean – Louis Tabrd (tên Việt là Từ) sinh tại Saint – Etienne. Quận Loire (Pháp) ngày 18/6/1794, gia nhập Hội Truyền giáo nước ngoài, trụ sở tai Paris (MEP), thụ phong linh mục ngày 27/7/1878. Ngày 7/11/1820, ông rời Pháp đến Đàng Trong – Việt Nam truyền giáo.
Tới nơi, Taberd nổ lực học tiếng Việt và viết các thứ chữ Hán, Nôm, quốc ngữ Latinh mà tư liệu học tập tốt nhất có lẽ là Tự vị Annam – Latinh (Dictionarium – Anamitico – Latinum) của Bá Đa Lộc (PieremPigneau de Beshaine) hoàn thành từ nă 1773. Taberd chủ yếu lo việc đào tạo các giáo sĩ bản quốc.

          Dưới thời Gia Long (1802 – 1819), việc truyền giáo không dễ dàng như dưới thời Nguyễn Ánh (1778 – 1802) vốn thân thiện với Giám mục Bá Đa Lộc (sinh năm 1771 – 1799), nhưng chưa bị cấm cách. Dưới thời Minh Mạng (1820 – 1840), đạo và tập trung các giáo sĩ ngoại quốc và Huế. Lê Văn Duyệt có thiện cảm với Công giáo nên cho hai thừa sai Resgesreau, Morronne được ở lại Nam Kỳ, còn hai thừa sai Gegelin, Odoric thì gởi ra Huế. Lúc ấy thừa sai Taberd đang ở tại chủng viện Phường Rượu (An Do, Quảng Trị) cũng tuân lệnh tới kinh. Đại Nam thực lục ghi: “Năm Đinh Hợi (1827), tháng 8, bổ người Tây dương là Phú Hoài Nhân (Taberd) làm Chánh thất phẩm thông dịch ở Ty Hành nhân; Tây Hoài Hoa (Gagelin), Tây Hoài Hóa (Odoric) làm Tùng thất phẩm thông dịch Ty Hành nhân. Mỗi tháng cấp cho mỗi người 20 quan tiền, 4 phương gạo lương, 1 phương gạo trắng. Sai phủ Thừa Thiên trông coi, cấm không cho ra ngoài dạy học trò để truyền giáo”. (1) Taberd bị cấm truyền giáo, nhưng có dịp hoàn thiện ngôn ngữ và bổ sung trình độ Việt Nam học. Những kiến thức chắc chắn về chính quyền hay sử địa nhận được từ triều đình trung ương sẽ được trình bày trong từ điển hay bản đồ sau này.
spacer

Con đê và vết hằn lên tính cách người Việt

Những di chỉ khảo cổ đã dẫn dắt các nhà khảo cổ học và dân tộc học từ lâu đến kết luận rằng có một sự diễn tiến liên tục từ văn hoá Phùng Nguyên, qua các văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun đến văn hoá Đông Sơn, rằng chủ nhân văn hoá Đông Sơn chính là tổ tiên của người Việt ngày nay, và rằng “ Những văn hoá Tiền Đông Sơn cùng với văn hoá Đông Sơn hợp thành một hệ thống văn hoá... có thể gọi là hệ thống văn hoá sông Hồng. Trong bài viết này, dựa trên những thành tựu của nghiên cứu địa lý - địa chất vùng đồng bằng sông Hồng, những thành tựu và phát hiện khảo cổ học, những công trình nghiên cứu văn hoá tộc người đã được công bố, chúng tôi thử đưa ra một sự hình dung về một quá trình, tạm gọi là quá trình Đông tiến, của tổ tiên người Việt, chủ yếu dọc theo dòng chảy sông Hồng, từng bước từng bước trở thành chủ nhân của vùng châu thổ Bắc Bộ - cũng là vùng lãnh thổ giữ vai trò hạt nhân trong quá trình hình thành quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, đó lại cũng vẫn là một nhiệm vụ quá lớn, quá nghiêm túc, do vậy câu chuyện chủ yếu sẽ chỉ diễn ra xung quanh việc người Việt từ xưa tới nay đã trở nên thế nào “dọc theo những triền đê”.

spacer

Lưu ý những điều cấm kỵ trong sắp đặt bàn thờ P2

Người xưa quan niệm có rất nhiều cấm kị tại vị trí đặt ban thờ: Không được dựa vào trụ nhà, không được có cửa sổ bên cạnh (do không thể tụ được khí). Ban thờ cũng không được áp lưng vào nhà bếp vì có thể khiến chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống.

Phía sau ban thờ đặc biệt không được có nhà vệ sinh, nhà tắm do có âm khí và xú khí nặng, theo phong thủy dễ khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau bàn thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ở lưng.
Bàn thờ không được đối diện với lò, bếp, nhà vệ sinh, kể cả hướng lệch sang bên cũng không tốt. Nếu không còn vị trí nào khác để đặt ban thờ thì nên lấy bình phong che lại. Phòng thờ không nên đặt ở nền đất vốn trước đây là nhà bếp, nhà vệ sinh do chất đất không tốt. Trên ban thờ kị đặt các vật linh tinh, dao kéo, thuốc men, không được dùng tủ thờ làm nơi cất giữ đồ đạc hoặc bể cá, vô tuyến, loa đài.
Vật liệu làm bàn thờ nên sử dụng gỗ long não, đàn hương và nên điêu khắc thủ công là tốt nhất do các loại gỗ này tránh mối mọt, có thể sử dụng từ đời này sang đời khác.
Trên bàn thờ không nên đặt chậu cây cảnh mà chủ yếu dùng hoa tươi để thờ phụng, không nên dùng hoa nhựa. Chủ nhà thường xuyên vệ sinh khu vực xung quanh, nên thắp hương vào sáng và tối. Người xưa quan niệm rằng nếu khói hương bay thẳng lên là tốt, nếu cuốn thành vòng tròn hoặc tản mát là có “ngoại linh đang tranh cướp”. Nếu bát hương bàn thờ thần tự nhiên bốc cháy là may mắn, nếu bát hương thờ tổ tiên cháy là điềm báo hung.
Nếu ban thờ của nhà có thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc dùng tấm vách ngăn sơn đỏ để tránh tranh chấp nhau.
Ban thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Sở dĩ có quan niệm này vì người xưa cho rằng ban thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường bàn thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu ban thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán.
Ban thờ không được xung với đường đi: Ban thờ bị đường đi đâm thẳng vào dễ gây bất an tổn hại đến cung tài lộc, nhân đinh của gia đình, dễ gây tai nạn ngoài ý muốn hoặc bệnh tật tấn công.
Ban thờ ngược với hướng nhà dễ khiến người trong nhà bất hòa, dễ gặp bất trắc bệnh tật. Nếu đặt ở vị trí quay sang trái hoặc sang phải nhà thì chủ nhân dễ có tâm sự phiền muộn khó nói ra. Nếu ban thờ đối diện với nhà vệ sinh thì người trong nhà gặp nhiều bệnh tật đau đớn.
Nếu ban thờ đối diện với nhà bếp dễ khiến nguời trong nhà hay tranh cãi những việc nhỏ, tính tình nóng nảy. Nếu phía trên ban thờ có xà nhà có thể khiến chủ nhân dễ bị đau đầu, cuộc sống vất vả. Nếu đặt đối diện với cầu thang, chủ nhân dễ bị động dao kéo, tai nạn đổ máu. Nếu đặt dưới cầu thang thì người trong nhà khó có cơ hội phát triển. Nếu đặt trên nền đất lồi lõm không bằng phẳng có thể khiến chủ nhân gặp khó khăn trong mọi việc. Nếu phía trên, dưới, trái, phải ban thờ có cửa sổ thì chủ nhân dễ bị tán tài.
Ngày Tết là thời điểm quan trọng chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, mọi người đều dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đón Tết và cũng không được phép quên trang hoàng nơi thờ cúng. Công việc này thông thường bắt đầu từ ngày 23/12 âm lịch, thời điểm tiễn táo quân lên thiên đình bẩm báo công việc ở hạ giới trong năm theo phong tục Việt Nam...
Nguồn: theo PLVN
spacer

Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận như thế nào? P1

Trong quan niệm của người Việt, bàn thờ trong mỗi gia đình – nơi thờ cúng gia tiên, tưởng nhớ tổ tiên là nơi trang nghiêm, tôn kính nhất. Thế nhưng phong tục tốt đẹp từ ngàn đời này có những nguyên tắc sắp xếp, trang hoàng riêng mà không phải ai cũng biết. Và phong thủy nơi thờ cúng có ảnh hưởng nhất định đến những con người đang sống trong gia đình.


Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận?
Thần Phật được thờ trong nhà giống như người khách quý nên người ta thường đặt ban thờ thần Phật ở sảnh giữa nhà, áp lưng vào tường vững chắc hoặc để chung với bàn thờ gia tiên. 
Nhưng cũng không phải tùy tiện thích đặt thế nào thì đặt vì vậy, người xưa cho rằng chỉ cần nhìn vào nơi thờ cúng của gia đình cũng có thể biết gia chủ có tâm hay không. Cái tâm ở đây không được đo bằng mâm cao cỗ đầy, vàng mã bao nhiêu mà là ở vị trí đặt bàn thờ, cách sắp xếp bàn thờ ra sao cho phù hợp, trang nghiêm và sạch sẽ.
Quan niệm phong thủy thì cho rằng bàn thờ là nơi linh khí quy tụ, là chỗ để người trên dương thế liên hệ với người đã khuất, người chết thì thành thần, thần lại là trung gian giữa trời với người. Từ đó có thể thấy, khí trường của ban thờ ảnh hưởng rất lớn đến người trong nhà. Ban thờ sắp đặt đúng cách không chỉ khiến người đã khuất an định mà ở lại coi sóc phù hộ gia đình, nên ban thờ cũng có những quy tắc nhất định.
Sắp đặt ban thờ theo phong thủy
Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng. 
Bàn thờ thần Phật thì nên đặt ở hướng chính hoặc quay bên trái, bên phải. Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc.
Số lượng thần Phật phải là số dương, do thần Phật thuộc dương vì vậy phải dùng số lẻ, không nên thờ cùng lúc quá nhiều thần Phật, hoặc thờ cùng lúc hai thần xung khắc nhau có thể gây loạn linh khí khiến người trong nhà tinh thần bất an, dễ gặp tai họa. Nếu có đặt tượng thần Phật mà tượng ấy lại bị nứt thì nên nhanh chóng thay mới do tà khí có thể xâm nhập vào.
Ban thờ có thờ chung thần Phật và bài vị tổ tiên thì thần Phật đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Thông thường người ta đặt nơi thờ cúng tổ tiên trước rồi mới đến thần Phật.
Tổ tiên được coi là chủ, thần Phật được coi là khách quý, nếu mời thần Phật trước rồi mới mời tổ tiên người xưa cho rằng như vậy khiến tổ tiên nhà mình không dám vào cửa. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần Phật. Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát
Bát hương thờ tổ tiên nên có tay cầm, bát hương thờ thần không nên có tay cầm. Vật liệu bát hương tốt nhất là dùng bằng sứ, sau đó đến đồng, không nên dùng đá hoa cương.
Bóng đèn phía trước không nên xung với ban thờ, không nên dùng đèn chiếu. Ban thờ cũng không đặt ở vị trí dưới xà nhà, nếu không có vị trí tốt hơn thì phải làm trần, ngoài ra bên trên không được có máy móc như máy điều hòa, máy hút mùi, loa đài.
Số lượng thờ thần Phật nhiều nhất là 3, không nên quá nhiều dễ gây bất an. Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ.
Bát hương thờ thần Phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên, khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà. Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số.
spacer
do