Hiển thị các bài đăng có nhãn van hoa dong ho. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn van hoa dong ho. Hiển thị tất cả bài đăng

"Đại Cồ Việt" hay "Cồ Việt"?

Lưu truyền năm 968 sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế hiệu là Đại Thắng Minh hoàng đế, đặt quốc hiệu là “Đại Cồ Việt” và hai năm sau (970) lấy niên hiệu Thái Bình, sử gọi là Đinh Tiên Hoàng.

 Năm chữ “Quốc hiệu Đại Cù Việt” trong Đại Việt Sử Ký toàn thư bằng chữ Hán

Xem lại Đại Việt Sử Ký toàn thư nguyên bản bằng chữ Hán thì quả thật quốc hiệu thời Đinh Tiên Hoàng gồm ba chữ viết từ trên xuống là “ (Đại cù/ cồ (?) Việt)”. Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) giải thích: “Đại” theo nghĩa chữ Hán là lớn, “Cồ ()” trong tiếng Việt cổ cũng là lớn. Đinh Tiên Hoàng muốn ghép hai chữ cả Hán và Việt để khẳng định nước Việt là nước lớn, dù đọc theo ngôn ngữ nào.
Tra hầu hết các loại Hán - Việt từ điển hiện có đều không thấy chữ “cồ” mà chỉ có chữ “cù ()” với 3 nghĩa là “nhìn lấm lét”, “một loại binh khí cổ” và “họ Cù”. Riêng Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh (cũng như của Nguyễn Văn Khôn), không rõ căn cứ vào đâu(?), lại cho chữ Hán này đọc là “cồ”, không có âm “cù”. Để chắc chắn, tôi tra Từ nguyên, chữ này có hai âm phiên thiết: “kỳ cụ thiết, bình (thanh)” như vậy âm một phải đọc là âm “cù”, hoặc “cửu ngộ thiết, khứ (thanh)” tức âm hai phải đọc là “cố” (như họ Cố), không hề có âm “cồ”!

Thật ra sử sách cũ ngày nay chỉ còn Đại Việt Sử Ký toàn thư gọi là văn bản gốc, nhưng đây cũng không phải là chữ viết gốc thời Đinh Tiên Hoàng mà đã “tam sao thất bản” nhiều lần qua các bản chép tay của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, sử thần triều Lê... Nhưng lần “thất bản” lớn nhất, theo tôi, là chuyển từ bản chép tay sang khắc mộc bản để in sách từ thời Lê Chính Hòa năm 1697. 

Chúng ta đều biết rằng “cồ” là tiếng Việt cổ, như ta nói “con gà cồ” có nghĩa là con gà to lớn và là một ngôn ngữ thuộc hệ Nam Á, khác với tiếng Trung Quốc thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng. Còn chữ Việt cổ có thể là “chữ khoa đẩu” hình nòng nọc hoặc “hỏa tự” hình đốm lửa, khác hẳn với chữ Nôm thuộc hệ chữ Hán mới hình thành khi độc lập sau cả ngàn năm Bắc thuộc. Cho nên khi ký âm chữ “cồ” bằng chữ Nôm cũng không nằm ngoài “lục thư” tức sáu cách hình thành chữ Hán...
Tôi cho rằng hai chữ “đại cù” trong Đại Việt Sử Ký toàn thư chính là một chữ Nôm “cồ ”, có cấu tạo hài thanh, gồm chữ “đại ()” nằm trên để mang ý nghĩa “to lớn”, ghép với chữ “cù ()” nằm dưới để láy âm, biến thành âm “cồ”.

 Một trang gia phả của tộc Đinh viết thời Khải Định (1916-1925) bằng chữ Hán có phụ chú quốc ngữ, trong đó phiên âm quốc hiệu là “Đại Cù Việt”

Người xưa khi viết sử bằng chữ Hán, tất nhiên viết dọc từ trên xuống từ phải sang trái và chép bằng tay thì chữ to nhỏ không đều, riêng vẫn có thể thêm những danh từ riêng bằng chữ Nôm vào. Do vậy chữ Nôm “cồ” rất dễ đọc nhầm thành “đại cù”. Khi người thợ đem bản chép tay Đại Việt Sử Ký toàn thư đi khắc trên gỗ để in hàng loạt sách, thấy chữ Nôm “cồ” quá lạ (còn chữ “Việt” thì chữ Nôm viết cũng như chữ Hán), lại có thói quen đọc sử bằng chữ Hán nên cho rằng chắc là hai chữ Hán “đại cù” mà viết quá gần nhau, rồi khắc tách ra thành hai chữ riêng biệt như ngày nay ta thấy, nhưng thật ra chỉ là một chữ Nôm và đọc là “cồ” mà thôi.
Rồi đến các nhà nghiên cứu sau này, khi đọc và dịch Đại Việt Sử Ký toàn thư tất nhiên phải đọc là “Đại Cù Việt ()”, nhưng xét chữ “cù” ở đây rất vô nghĩa(!), nên giải thích rất khiên cưỡng là đọc “cồ” vì là chữ Nôm, “tiếng Việt cổ”.
Nước ta từng có quốc hiệu Vạn Xuân năm 544 nhưng Đinh Tiên Hoàng dùng lại chữ “Việt” là tìm về cội nguồn Lạc Việt (tổ tiên của dân tộc Việt chúng ta), lại thêm chữ “cồ” (tiếng Việt) để muốn giương cao nước Cồ Việt là một nước rộng và có nền văn hóa “lớn” thuần Việt (phi Hoa phi Ấn), thuộc một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của nhân loại là văn hóa Đông Sơn (năm 700 TCN - 100) mà đỉnh cao là trống đồng Đông Sơn - trống đồng Ngọc Lũ lan tỏa cả vùng Hoa Nam (Trung Quốc ngày nay); vì theo Hán thư và Cựu Đường thư thì người Lạc Việt từng sinh sống ở Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam và cả vùng sông Hán...
Những nguyên nhân trên làm tôi cho rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử VN dựng nước, Đinh Tiên Hoàng đã bắt đầu dùng luôn chữ Nôm để đặt quốc hiệu gồm hai tiếng thuần Việt/chữ Nôm là “CỒ VIÊT ”, chứ không phải ba chữ Hán “Đại Cù/Cồ Việt ”! và chữ “cồ” ở đây là một chữ hài thanh (đủ cả âm lẫn nghĩa), vì chọn quốc hiệu hay tên riêng thì không thể dùng một chữ giả tá mượn âm nhưng vô nghĩa (đối với danh từ riêng đó), như chữ “cù/cồ” được!
Chứng cứ rõ nhất là trong đền vua Đinh Tiên Hoàng lại Hoa Lư, ở Bái đường có bức hoành Chính thống thủy (mở nền chính thống của nước Cồ Việt) và hai câu đối:
Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo
Hoa Lư đô thị Hán Trường An
Tạm hiểu là:
Nước Cồ Việt cùng thời Khai Bảo (968-976) nước Tống,
Kinh đô Hoa Lư (của Cồ Việt) cũng tựa như Tràng An thời Hán vậy.
Cho thấy rõ ràng quốc hiệu cũng chỉ có hai chữ “Cồ Việt”. Nếu là ba chữ “Đại Cồ Việt” thì tất nhiên câu đối dưới cũng phải có tám chữ. Quốc hiệu là danh từ riêng, lẽ nào không thể viết đầy đủ ba chữ mà phải viết hai chữ, và câu đối đâu bắt buộc phải chỉ viết bảy chữ!
Do giới hạn của trang báo, tôi chỉ nêu vấn đề chứ chưa thể trình bày đầy đủ các vấn đề liên quan, rất mong được nghe thêm ý kiến của các nhà sử học, ngôn ngữ học... 

BS NGUYỄN ANH HUY

spacer

Tìm ra nơi nghỉ dưỡng của vương phi và đế vương thời Trần?

Nghiên cứu khảo cổ học của Viện Nghiên cứu kinh thành cho thấy hành cung Lỗ Giang được quy hoạch rất quy chuẩn như kiến trúc trong Hoàng cung Thăng Long. Đây cũng là điểm mở ra khả năng khai thác du lịch tâm linh ở địa phương.
 
Các hố khai quật hành cung Lỗ Giang
Ảnh: Viện nghiên cứu kinh thành cung cấp
 
Liên quan đến nơi ở và làm việc của vua
PGS-TS Bùi Minh Trí nhắc đi nhắc lại nhiều lần về tính vương quyền và sự quy chuẩn của mặt bằng kiến trúc hành cung Lỗ Giang (H.Hưng Hà, Thái Bình). Vị giám đốc Viện Nghiên cứu kinh thành cho biết, tính vương quyền của hành cung này đã bộc lộ rất rõ sau cuộc khai quật năm 2017. 
 
Tính chất vương quyền này thể hiện qua các vật liệu trang trí hình rồng, qua ngói úp đầu bờ dải trang trí mặt sư tử, trên trán khắc chữ Vương, cho thấy kiến trúc này liên quan đến nơi ở và làm việc của vua. Khai quật ở Lăng Sa Trong cũng cho thấy nửa phía tây của một khuôn viên kiến trúc lớn với hệ thống 3 công trình kiến trúc gỗ bên trong gồm kiến trúc cổng, kiến trúc hình chữ Công và kiến trúc nhà dài có bộ vì 4 hàng cột. “Điều đó khẳng định rõ hành cung Lỗ Giang - Kiến Xương xưa rất rộng lớn, được quy hoạch như kiến trúc trong Hoàng cung Thăng Long”, ông Trí nói.
 
Cũng theo ông Trí, mỗi hành cung trong lịch sử lại có chức năng riêng. Chẳng hạn, hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình) gắn với việc vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành. Với Lỗ Giang, ông Trí cho rằng, hành cung này gắn với việc Thiên Trường (Nam Định) trở thành kinh đô thứ hai của nước Đại Việt sau kinh đô Thăng Long, với đầy đủ chức năng là một trung tâm chính trị kinh tế văn hóa. Đây cũng là căn cứ địa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. “Năm 1293, Khâm từ Bảo thánh Hoàng thái hậu băng hà. Năm 1341, vua Trần Hiến Tông băng hà ở chính tẩm, tạm quàn ở cung Kiến Xương… Như vậy, hành cung Lỗ Giang có phải là nơi ở hay nghỉ dưỡng của các vị vương phi và đế vương?”, ông Trí nêu giả thuyết.
 
 Ông Trí nhận định, nghiên cứu khảo cổ học ở hành cung Thiên Trường và hành cung Vũ Lâm đều tìm thấy bằng chứng sản xuất đồ gốm. “Ở Lỗ Giang đã tìm thấy nhiều mảnh vỡ bao nung gốm và một số đồ gốm phế thải có niên đại vào thời Trần. Manh mối này gợi ý đến hành cung Lỗ Giang xưa cũng có thể có xưởng sản xuất đồ gốm và nó tồn tại như một dạng điền trang thái ấp của nhà Trần, trực tiếp do triều đình Thăng Long quản lý”, ông Trí nói.
 
 
 
 Hiện vật kiến trúc tại hành cung Lỗ Giang
 
PGS-TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học VN, đánh giá đã có thể hình dung được một khuôn viên tương đối chính xác, gợi mở nhiều vấn đề nghiên cứu cho khu vực này. Chẳng hạn, một số vật liệu kiến trúc có ở Thăng Long cũng đã xuất hiện tại đây tuy có khác một chút. Cũng theo ông, đã có thể tính đến chuyện bảo tồn di tích tại chỗ và nếu có thể thì mở rộng khai quật.
 
Trong khi đó, PGS-TS Bùi Văn Liêm, Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học, đánh giá tìm thấy hành cung Lỗ Giang chính là hoạt động khảo cổ học lớn nhất của Thái Bình trong thời gian gần đây.
 
GS-TS Nguyễn Văn Kim, Phó hiệu trưởng ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội) cũng ngạc nhiên vì tính rộng lớn của công trình. Mặc dù vậy, theo ông Kim, hiện tầng văn hóa tương đối mỏng do ảnh hưởng của quá trình bà con nông dân canh tác. “Tôi nghĩ cần tính đến việc so sánh hành cung với điền trang thái ấp thời Trần. Cũng nên so sánh các hiện vật ở đây với thương cảng Vân Đồn vì hành cung này chắc sẽ dựa trên nền kinh tế vững chắc của thời đại khi đó. So sánh như vậy để nhìn thấy ảnh hưởng của thủ công nghiệp, gốm sứ cũng như không loại trừ khả năng của thương nghiệp”, ông Kim nói.
 
 

spacer

Giai thoại về ngôi huyệt phát tích nhà Trần và thực hư con sông làm đứt long mạch đế vương

Hiện nay, tư liệu còn lưu lại hai thuyết chính nói về ngôi huyệt phát tích nhà Trần. Một thuyết nói rằng, ngôi huyệt phát kết là do thầy phong thủy Tàu đặt đất. Thuyết nữa thì nói rằng ngôi huyệt do thầy phong thủy bí ẩn người Việt tìm thấy. Vậy thầy phong thủy nào trong số hai người trên mới đích thực là “chân nhân”, góp phần tạo nên một trong những vương triều lẫy lừng bậc nhất trong lịch sử?

Đền thờ các vua Trần tại Thái Bình ngày nay.

spacer

Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận như thế nào? P1

Trong quan niệm của người Việt, bàn thờ trong mỗi gia đình – nơi thờ cúng gia tiên, tưởng nhớ tổ tiên là nơi trang nghiêm, tôn kính nhất. Thế nhưng phong tục tốt đẹp từ ngàn đời này có những nguyên tắc sắp xếp, trang hoàng riêng mà không phải ai cũng biết. Và phong thủy nơi thờ cúng có ảnh hưởng nhất định đến những con người đang sống trong gia đình.


Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận?
Thần Phật được thờ trong nhà giống như người khách quý nên người ta thường đặt ban thờ thần Phật ở sảnh giữa nhà, áp lưng vào tường vững chắc hoặc để chung với bàn thờ gia tiên. 
Nhưng cũng không phải tùy tiện thích đặt thế nào thì đặt vì vậy, người xưa cho rằng chỉ cần nhìn vào nơi thờ cúng của gia đình cũng có thể biết gia chủ có tâm hay không. Cái tâm ở đây không được đo bằng mâm cao cỗ đầy, vàng mã bao nhiêu mà là ở vị trí đặt bàn thờ, cách sắp xếp bàn thờ ra sao cho phù hợp, trang nghiêm và sạch sẽ.
Quan niệm phong thủy thì cho rằng bàn thờ là nơi linh khí quy tụ, là chỗ để người trên dương thế liên hệ với người đã khuất, người chết thì thành thần, thần lại là trung gian giữa trời với người. Từ đó có thể thấy, khí trường của ban thờ ảnh hưởng rất lớn đến người trong nhà. Ban thờ sắp đặt đúng cách không chỉ khiến người đã khuất an định mà ở lại coi sóc phù hộ gia đình, nên ban thờ cũng có những quy tắc nhất định.
Sắp đặt ban thờ theo phong thủy
Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng. 
Bàn thờ thần Phật thì nên đặt ở hướng chính hoặc quay bên trái, bên phải. Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc.
Số lượng thần Phật phải là số dương, do thần Phật thuộc dương vì vậy phải dùng số lẻ, không nên thờ cùng lúc quá nhiều thần Phật, hoặc thờ cùng lúc hai thần xung khắc nhau có thể gây loạn linh khí khiến người trong nhà tinh thần bất an, dễ gặp tai họa. Nếu có đặt tượng thần Phật mà tượng ấy lại bị nứt thì nên nhanh chóng thay mới do tà khí có thể xâm nhập vào.
Ban thờ có thờ chung thần Phật và bài vị tổ tiên thì thần Phật đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Thông thường người ta đặt nơi thờ cúng tổ tiên trước rồi mới đến thần Phật.
Tổ tiên được coi là chủ, thần Phật được coi là khách quý, nếu mời thần Phật trước rồi mới mời tổ tiên người xưa cho rằng như vậy khiến tổ tiên nhà mình không dám vào cửa. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần Phật. Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát
Bát hương thờ tổ tiên nên có tay cầm, bát hương thờ thần không nên có tay cầm. Vật liệu bát hương tốt nhất là dùng bằng sứ, sau đó đến đồng, không nên dùng đá hoa cương.
Bóng đèn phía trước không nên xung với ban thờ, không nên dùng đèn chiếu. Ban thờ cũng không đặt ở vị trí dưới xà nhà, nếu không có vị trí tốt hơn thì phải làm trần, ngoài ra bên trên không được có máy móc như máy điều hòa, máy hút mùi, loa đài.
Số lượng thờ thần Phật nhiều nhất là 3, không nên quá nhiều dễ gây bất an. Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ.
Bát hương thờ thần Phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên, khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà. Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số.
spacer

NGUỒN GỐC DÒNG HỌ CAO VIỆT NAM

NGUỒN GỐC DÒNG HỌ CAO VIỆT NAM


Đây là một phần trích trong cuốn VIỆT NAM - NGUỒN GỐC DÒNG HỌ CÁC DÂN TỘC.

Mục đích: tìm hiểu về nguồn gốc các dòng họ Việt xưa & nay. Theo tôi, muốn hiểu về nguồn gốc dòng họ Việt, phải hiểu về nguồn gốc dân Bách Việt, sau này là Lạc Việt. Chúng ta không tranh luận về việc họ Việt có trước hay sau họ của người Hoa… Nhưng cần khẳng định, văn minh của người Việt cổ có trước văn minh Hoa Hạ. Văn minh Hoa Hạ có trước văn minh Hán; Nghĩa là nền văn minh của chúng ta có trước văn minh Trung Hoa…
…Xưa kia, Bách Việt gồm nhiều bộ tộc Việt cổ, họ sống trải rộng khắp vùng nam sông Dương Tử xuống hết phía nam lục địa Trung Hoa, cho đến tận miền trung Việt Nam ngày nay…
 
Bảng gỗ đỏ sơn chữ vàng do vua nhà Nguyễn ban tặng cụ Cao Xuân Dục.
Họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với vương hiệu Hùng Vương. Các vua Hùng thuộc dòng họ Hùng đầu tiên ở Việt Nam, không phải chỉ có 18 đời vua mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua. Như vậy, các dòng họ Việt đã có lịch sử từ nhiều ngàn năm nay…(tôi sẽ trình bày kỹ việc này trong nội dung cuốn sách TÌM HIỂU NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM).

Dưới đây, tôi xin trích một phần về họ Cao Việt Nam để quý anh chị tham khảo. Rất mong sư hợp tác của quý anh chị để bộ sách qý này có thể sớm ra mắt công chúng, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dòng họ Việt Nam. Cho chúng ta niềm tự hào là người Việt Nam.
Tư liệu về nguồn gốc dòng họ rất cần tham khảo, đối chiếu từ nhiều nguồn, đặc biệt từ gia phả của các dòng họ. Phần dịch nội dung gia phả cổ là hết sức quan trọng & ngày càng đòi hỏi sự chung tay góp sức từ các học giả, cá nhà nghiên cứu, dịch giả Hán-Nôm v.v…
(Kèm Đĩa DVD & ảnh mầu)

Các chi họ, dòng họ Cao trên mọi miền đất nước cũng như ở nước ngoài – tất cả đều nhận danh tướng Cao Lỗ là tiền đại viễn tổ của dòng họ Cao ở Việt Nam. Nghĩa là người họ Cao chỉ có một thủy tổ duy nhất là THÁNH TỔ CAO LỖ VƯƠNG.

Tính từ thủy tổ Cao Lỗ (?-179 TCN) đến nay, họ Cao đã trải qua 2300 năm với trên 90 đời con cháu, chắt, chút… Các chi họ Cao đã phát triển thêm nhiều cành, nhánh với hàng vạn nhân khẩu định cư trải dài trên nhiều địa phương trong & ngoài nước.

Ở vùng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay còn nhiều dòng họ là hậu duệ các quan lại từ thời An Dương Vương, như các dòng họ An, họ Âu, họ Bùi, họ Chu, họ Đỗ, họ Đào, họ Lại, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trương v.v…Có thể khẳng định, nguồn gốc các dòng họ Việt Nam đã có ít nhất là 2300 năm, từ thời An Dương Vương.

Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên):

Còn gọi là Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần. Cao Lỗ là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Hình lăng mộ & đền thờ tướng quân Cao Lỗ ở Gia Bình, Bắc Ninh.

Lăng mộ Cao Lỗ Vương ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Người dân làm lễ ở Đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức, Gia Bình).


Cao Quýnh (1449-1535):

người làng Phú Trung, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông nổi tiếng là người học thông biết rộng. Trong suốt cuộc đời làm quan, ông luôn chăm lo công việc triều chính, đề xướng chính sách lương thực, mở mang thủy lợi, tạo điều kiện cho nông nghiệp nước nhà phát triển, được người đời khen ngợi. Ông đỗ Đệ Nhất Giáp tiến sĩ năm 1475 thời Lê Thánh Tông. Khi mất, mộ ông được an táng tại xứ Mã Tây, thôn Xuân Lôi, xã Diễn Thành, Nghệ An. Vua Tự Đức thứ X (1857) ban sắc phong ông là Tuấn Lương Thần; Triều Nguyễn - Vua Thành Thái năm thứ XVI xét công trạng của ông cũng đã phong sắc với nội dung: “Sắc cho thôn Tú Mỹ, xã Hạnh Lâm, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An phụng sự Thám hoa Đông các đại học sỹ Cao tướng công tôn thần, hộ quốc giúp dân, tỏ rõ linh ứng. Trước đây chưa được ban cấp sắc phong. Nay Trẫm vâng mệnh nối ngôi báu nhớ tới ơn thần ban phong là: Trác vĩ dục bảo trung hưng thượng đẳng thần, chuẩn cho phụng sự như cũ. Thần hãy bảo vệ con dân của Trẫm. Kính cẩn! (ngày 25/11 năm Thành Thái thứ XVI -1904).

Nhà thờ của Thám hoa Cao Quýnh tại xóm 8, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu có hai tòa: hạ điện và thượng điện. Nội thất có nhiều hiện vật quý. Long ngai bài vị ông có vị hiệu: Thần tổ hội nguyên đình tứ Thám hoa Đông các đại học sỹ, cao tặng tuấn lương tước phong Trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng tối linh tôn thần. Tại nhà thờ còn có lọng vàng, 2 bức đại cổ sơn son thiếp vàng do hội văn huyện Diễn Châu kính tặng, 2 thẻ thượng đẳng khôi khoa, 2 hàng gươm giáo 8 ngọn, 6 cặp câu đối, các bộ trống, chuông đồng.

Gia phả (Dịch từ chữ Hán) họ Cao Quan Thám hiện lưu ở nhà ông Cao Hoa, tộc trưởng, xóm 8, Diễn Thành, Diễn Châu. Sắc phong và bản dịch để trong nhà thờ họ Cao Quýnh, ở Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An.

Phụ chương gia phả sắc phong Cao Quýnh

Sách Khoa bảng Nghệ An ghi “Cao Quýnh người xã Cao Xá (nay là xã Diễn Thành,
huyện Diễn Châu) thi Hương đậu nhất cử (giải Nguyên), 37 tuổi đậu Đệ nhất giáp cập đệ Tam Gianh (Thám Hoa) khoa Ất Mùi Hồng Đức thứ VI (1475) đời Lê Thánh Tông. Ông nguyên có tên là Lỗ (Cao Lỗ), được ngự bút của vua sửa tên là Quýnh (Cao Quýnh), làm quan đến Đông các đại học sỹ.

Sắc phong của vua Thành Thái cho Thám hoa Cao Quýnh (Hiện còn lưu tại nhà thờ ở Diễn Thành, Diễn Châu).

Ảnh chụp nhà thờ Cao Quýnh


Cao Dương Trạc (1690-1753): 

Nguyên quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: ông đỗ đồng Tiến sĩ năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (Ất Mùi 1715) triều Lê Dụ Tông (1705-1729), làm quan Thượng thư ở Bộ Hộ, sau chuyển sang Bộ Lại. Ông là người ưa thích văn học, được vào cung bàn luận thơ phú. Năm Vĩnh Hựu (Ất Mão 1735), ông được tiến chức Thượng thư bộ Binh. Năm Bính Dần (1746), triều Cảnh Hưng thứ 7, vào tuổi 56, ông chuyển sang làm Thượng thư Bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ. Sau ông từ chức Thượng thư Bộ Lễ, ra làm Đốc đồng Thanh Hoá. Khi mất, ông được tặng hàm Thiếu bảo.

Cao Huy Dật (1707-1749):
 

Nguyên quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: Ông đậu Nho sinh trúng thức, chức Phụng Thị Văn Nội Giảng. Ông là cháu ruột, gọi Thượng thư Cao Dương Trạc là chú. Năm 1747, ông được thượng thư Cao Dương Trạc ủy thác viết gia phả họ Cao (CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP). Ông Cao Huy Dật là con trai Tả Bình Quan Cao Đức Doanh.

Cao Tư (1744-1818):

Ông sinh năm Giáp Tý, mất năm Kỷ Mão, thọ 75 tuổi. Nguyên quán Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay là Hà Nội). Ông làm quan võ dưới triều Lê trung hưng. Khi mất, được phong tước Thái Bảo Thọ Quận Công - Phó Quốc. Tổ phụ cụ Cao Tư là Cao Thụy Tín Mỹ di dời từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp ở Thành Hóa. Sinh thời, cụ Cao Tư cho dời mộ cụ tổ Cao Thụy Tiến Mỹ từ Thanh Hóa ra an táng tại thôn Công An, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Cụ cho con cháu đến định cư và xây dựng nhà thờ ở đó. Hiện nay, cụ Cao Thanh, trưởng chi họ Cao ở xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức, tỉnh Sơn Tây xưa (nay thuộc Hà Nội) đang lưu giữ cuốn Cao Tộc Phả Ký. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: chi họ Cao ở Văn Giang là chi thứ. Chi họ Cao ở Sủi, Phú Thị là chi trưởng, có cùng nguồn gốc từ chi họ Cao ở Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Hình ảnh & Video
Mộ cụ Cao Tư ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Mộ cụ tổ Cao Thụy Tín Mỹ ở Chương Mỹ, Hà Nội.

Phụ chương gia phả chi họ Cao Tư

Dòng họ cụ Cao Tư ở Thanh Hóa có đến 30 võ quan dưới triều Lê trung hưng. Năm 2003, Sở Văn Hóa Tông tin tỉnh Thanh Hóa đã cấp bằng công nhận cụ Cao Tư là “Danh nhân văn hóa” của tỉnh và được xây dựng đền thờ tại thôn Hoằng Lộc, Hoằng Phúc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Cao Đình Độ (1741-1810) & con trai là Cao Đình Hương:
 

Nguyên quán Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay là Hà Nội). Tổ phụ ông di đời từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Những người thợ kim hoàn ở miền Trung đều coi hai bố con ông là tổ sư của nghề Kim hoàn, họ lấy ngày 7/2 âm lịch (ngày giỗ của ông Cao Đình Hương, người trực tiếp truyền nghề rộng rãi trong dân gian) làm ngày giỗ Tổ. Di tích nhà thờ Tổ nghề kim hoàn được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 168-QĐ/VH, ngày 2/3/1990 của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch).

Hình ảnh về ngôi nhà thờ tổ nghề kim hoàn ở Thừa Thiên-Huế

Cao Hữu Dực (1799-1859):

Còn gọi là Cao Hữu Bằng hoặc Cao Hữu Phùng: Nguyên quán gốc Thanh Hóa. Thủy tổ là cụ Cao Mác (Theo thế phả của dòng họ Cao Hữu, ông là người làng Thế Chí Đông 1, xóm Chùa, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông Đậu Hương Cống năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) - Theo THỰC LỤC CHÍNH BIÊN, ĐỄ NHỊ KỶ, QUYỂN XXXIV. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ binh, Tổng Đốc An-Hà (An Giang & Hà Tiên) thời Minh Mạng. Khi mất, được truy tặng Hiệp biện đại học sĩ. Con là Cao Hữu Sung làm quan đến Tuần phủ là tác giả tuồng Nôm: Địch Thanh 1918. Cháu nội cụ Cao Hữu Dực là Cao Hữu Lương đỗ khoa thi Hương.

Phụ chương gia phả Cao Hữu Dực

Cao Hữu Dực giỏi về văn chương và là người khai sinh tuồng Ô Thước & tuồng Tống Tử Vân. Báo Nông Cổ Mín Đàm, số 417, ngày Thứ Ba 22 tháng Ba năm 1910 và những số kế tiếp, lúc chánh chủ bút Lê Văn Trung và phó chủ bút Nguyễn Chánh Sắt, có đăng tin quảng cáo như sau: Những tuồng mới in đây là của ông Cao Hữu Dực, cựu Tổng Đốc trấn tỉnh An Giang. Tuồng Ô Thước, bộ 4 thứ 0$80, tuồng Ngũ Hổ Bình Tây 1, 2, 3 giá 0$25, Tuồng Tống Từ Vân…có thể, ông cũng là tác giả vở tuồng Lý Thiên Long.


Cao Bá Quát (1809-1865):
 

Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: Ông sinh tại làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội – Là con trai trưởng (chi Giáp Nhất) cụ Cao Huy Tham (1784-1850); Ông là em song sinh với Cao Bá Đạt (1809-1855), nguyên Tri huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761-1821).

Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm tân mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831). (theo hồ sơ số H62/3 Quốc triều Hương khoa lục, quyển 01B, mặt khắc 77). Làm quan Giáo thụ phủ Quốc Oai, sau cáo quan về quê chăm sóc mẹ già 68 tuổi (Theo Châu Bản Triều Nguyễn). Cao Bá Quát là nhà cách mạng, quốc sư của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (1854-1855) chống lại triều đình Nhà Nguyễn.

Phụ chương Cao Dương thế hệ ký &
Cao Dương hậu phả tập

Đương thời, Cao Bá Quát & Nguyễn Văn Siêu được vua Tự Đức ca ngợi là:

Văn như Siêu Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng Tuy, thất thịnh Đường.

Tạm dịch:

Văn như Siêu, Quát hơn Tiền Hán
Thơ cỡ Tùng, Tuy vượt Thịnh Đường

Cao Bá Quát được đánh giá là 1 trong 3 đại thi hào của nền văn học Việt Nam, sau Nguyễn Trãi & Nguyễn Du.

Năm 2010, thành phố Hà Nội hoàn thành công trình xây dựng Nhà tưởng niệm Danh nhân Cao Bá Quát tại quê hương ông ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội.

Hình & video NHÀ TƯỞNG NIỆM DANH NHÂN CAO BÁ QUÁT

Năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu quốc học thành phố HCM hoàn thành công trình nghiên cứu CAO BÁ QUÁT TOÀN TẬP (gồm 2 tập).

Hình bìa sách CAO BÁ QUÁT TOÀN TẬP

Năm 2013, nhà thờ họ Cao ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Hình ảnh & video Lễ đón nhận bằng di tích lịch sử

Giai thoại Thánh Quát

Giai thoại là những chuyện hay và lạ được truyền tụng trong mọi từng lớp dân gian. Cũng như các truyện cổ tích, tiếu lâm, phong dao, tục ngữ. Giai thoại cũng là sản phẩm văn hóa dân gian tiêu biểu cho tình cảm và đời sống của dân tộc. Nhưng có điều khác hơn, giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là xuất phát từ sự thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng.

Hiện vẫn còn tồn tại nhiều giai thoại liên quan đến nhân cách và tài thơ của Cao Bá Quát. Theo GS Vũ Khiêu, chúng ta chỉ có thể hiểu Cao Bá Quát và đánh giá đúng tư tưởng cùng hành động của ông trên cơ sở phân tích nguồn gốc xã hội đương thời, diễn biến trong cuộc đời và trong thơ văn của ông mà thôi

Dưới đây là tổng hợp một số giai thoại tiêu biểu về thánh Quát.

Cao Bá Quát tự là Mẫn Hiên, bút hiệu là Chu Thần (Cao Chu Thần), Cúc Đường, Cao Tử…Ông là người làng Sủi, Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Họ Cao ở làng Sủi vốn là họ lớn, người trong họ nối đời khoa bảng xuất thân; danh vọng nhất là tiến sĩ thượng thư Cao Dương Trạc làm quan đến Binh bộ Thượng thư...Từ nhỏ, ông đã thông minh hơn người, ăn nói đanh thép, dáng điệu hiên ngang, chí khí khác thường. Lên năm tuổi, cha đã cho học chữ. Ông học đâu nhớ đấy, lại thêm chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa nên sớm nổi tiếng là thần đồng. Mười tuổi, ông có tài nhả ngọc phun châu, đặt bút là thành thơ. Càng lớn lên, ông càng tỏ ra là người có khí phách khác thường, không chịu cúi đầu khuất phục cường quyền.

Tương truyền, làng ông có người lý trưởng cậy thế quan trên rất hống hách, lạm thu thuế của dân, cả làng sợ uy không ai dám nói. Ông biết chuyện, tức lắm, nhân việc lý trưởng đứng ra thuê thợ đắp đôi voi ở đình bèn làm bài thơ đem đến dán. Thơ rằng:

Khen ai khéo khéo đắp đôi voi
Ðủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Chỉ có cái kia sao chẳng thấy
Hay là thầy lý bớt đi rồi!

Lý trưởng biết là Quát nói xỏ mình, song đành bấm bụng làm ngơ.

Một lần khác, nghe tin Minh Mạng ra bắc để nhận phong của vua nhà Thanh, Quát cũng ra Hà Nội xem vua. Hôm đó, trời nắng quá, Quát thấy bức bối trong mình bèn cởi quần áo xuống Hồ Tây tắm. Bất ngờ, Minh Mạng ngự chơi đền Trấn Võ. Lính cận vệ dẹp đường phát hiện ra Quát dưới hồ bèn gọi lên. Quát giả vờ sợ hãi không kịp mặc quần áo, cứ trần như nhộng xin chịu trói. Vừa lúc, kiệu vua xịch đến. Minh Mạng thấy thế cho là hỗn láo vô lễ thì quở mắng. Quát nói mình là học trò, thật tình không biết lối vua đi, xin vua tha tội. Vua bảo:

- Nếu ngươi là học trò, trẫm ra cho câu đối, đối được thì tha, bằng không phải phạt chục roi. Nhân thấy dưới hồ có con cá lớn đuổi bắt cá bé, Minh Mạng tức cảnh đọc rằng:

- Nước trong leo lẻo, cá đớp cá.

Quát gãi đầu gãi tai xin vua có tha tội mới dám đối, Minh Mạng thuận cho. Ðược lời, Quát đối luôn:

- Trời nắng chang chang, người trói người.

Minh Mạng biết mình hớ để Quát xấc xược, đánh đồng vua với Quát, song trót hứa tha tội nên đành giả bộ thản nhiên khen hay rồi cho đi.

Cót két thẩn thơ 

Tương truyền khi chưa quen nhau, ông Quát nghe tiếng ông Nguyễn Văn Siêu dạy học, tìm đến thăm dò. Ông Siêu còn nghèo lắm, chỉ ngồi trên ghế chõng tre cũ kỹ, học trò trải chiếu ngồi quanh nền nhà. Cao Bá Quát xin vào học. Ông Siêu ra câu đối, bảo có đối được mới nhận. Câu đối như sau: 

Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két. 

Ông Quát đối ngay: 

Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.

Nguyễn Văn Siêu rất phục, dắt tay mời vào. Từ đó hai người kết bạn vong niên. 

Trên dưới đều chó 

Nhờ có tài văn chương, tuy chức phận thấp, Cao Bá Quát thường được nhiều người lưu ý, kể cả nhà vua. Một hôm, có hai viên quan cãi cọ nhau về một việc gì đó, đâm ra ẩu đả. Cao Bá Quát vì có chứng kiến nên vua Tự Đức bắt viết tờ trình cho vua rõ đầu đuôi. Ông Quát khai rằng: 

Bất tri ý hà 
Lưỡng tương đấu khẩu 
Bỉ viết cẩu 
Thử diệc viết cẩu 
Dĩ chí đấu ẩu 
Thần kiến thế nguy thần tẩu 

Nghĩa là: 

Chẳng biết vì sao 
Hai bên cãi cọ 
Bên này rằng: chó 
Bên kia cũng: chó 
Trên dưới đều chó 
Rồi họ đấu võ 
Thần thấy thế nguy thần bỏ. 

Khù khờ khệnh khạng 

Vua Tự Đức thường cứ nghĩ ra những trò văn chương độc đáo để khoe tài với các quan. Một lần, ông nói với họ: 

- Đêm qua, trẫm nằm mơ thấy hai câu thơ thật đặc biệt: 

Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ 
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khaị 

Các khanh thấy thế nào? 

Các quan đều nức nở cho là lạ, thơ chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là tiên thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát quỳ tâu: 

- Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ! Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe. 

Vua ngạc nhiên, thơ mình nghĩ ra kia mà. Anh chàng họ Cao này sao dám nói là thơ cũ? Nhưng vua cũng bình tĩnh bảo: 

- Nếu khanh đã nghe cả bài thì đọc thử xem: 

Cao Bá Quát đọc: 

Bảo mã tây phong huếch hoác lai 
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi 
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ 
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai 
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp 
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài 
Khù khờ thi tứ đa nhân thức 
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài

Tạm dịch: 

Gió tây ngựa huếch hoác về 
Huyênh hoang người cũng tự đi theo vào 
Khề khà oanh hót vườn nao 
Đồng quê lấm tấm muôn đào nở hoa 
Xuân không lộp bộp sương sa 
Ngày thu chỉ thấy trời mưa bài nhài 
Khù khờ thơ đã cũ rồi 
Ông còn khệnh khạng hỏi người hay thở 

Đức vua bị một đòn đau quá. Ông biết rõ Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc ông: "Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ". 

Câu đối ghi vào đèn lồng 

Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ (sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh). Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối Nôm. Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu: 

- Trước mẹ dạy con, gió chiều nào che chiều ấy, con dạ. 
   Giờ con thờ mẹ, đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi! 

Trong Nam truyền tụng là câu đối rất hay, dùng toàn tục ngữ mà sát với đôi đèn. 

Câu đối ghi ở nhà học 

Trước khi khởi nghĩa, Cao Bá Quát được triều đình nhà Nguyễn đưa đi làm giáo thụ ở Quốc Oai, vùng đất thuộc Sơn Tây, xa chốn kinh đô, thành thị. Học trò ít, cảnh sinh hoạt tiêu điều. Ông đã viết đôi câu đối dán ngoài nhà học: 

Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái 
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi  

spacer

Văn hóa dòng họ trong thời đại hội nhập


Trong quá trình hình thành văn hóa làng xã Việt Nam, văn hóa dòng họ là một yếu tố rất quan trọng và có ý nghĩa rất to lớn. Tuy nhiên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập ngày nay, văn hóa dòng họ đã có không ít những dấu hiệu của sự mai một. Cũng chính vì thế, vấn đề gìn giữ và bảo tồn những giá trị tinh thần vô cùng quý báu của văn hóa dòng họ là điều đặc biệt quan trọng và cần thiết, để góp phần phát huy nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
 
Văn hóa dòng họ là đặc sản của nền văn hóa Việt Nam, bắt nguồn từ cộng đồng làng xã vốn lấy nền kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo. Từ xưa, văn hóa dòng họ là sự gắn kết giữa các cá nhân với nhau, giữa các gia đình trong một dòng tộc, giữa các thế hệ trong cùng gia đình…, mà ở đó trật tự, nề nếp gia phong luôn được coi trọng, tinh thần đoàn kết, gắn bó, kính trên nhường dưới, quan hệ hàng xóm làng giềng… luôn được mọi người nâng niu và gìn giữ.
Giống như ở quê hương tôi, vốn là một làng thuần nông tại Hà Tây (cũ), trước kia văn hóa dòng họ cũng luôn được coi trọng. Ở quê hương tôi nói riêng hay ở cả vùng đồng bằng Bắc Bộ thậm chí cả xã hội Việt Nam thời xưa, mỗi dòng họ tuy nghề nghiệp có khác nhau, nhưng phần lớn sống dựa vào ruộng đất, một số ít làm nghề thủ công, một số có tham gia đôi chút thương nghiệp kèm với nghề nông, chăn nuôi, nhưng cả họ đều gắn bó với nhau và noi gương một số gia đình nho học, những gia đình nho học này không những có uy tín trong họ, trong làng mà thường vượt ra khỏi phạm vi làng. Người đỗ đạt cao nhất họ hoặc một nhà nho có uy tín trong vùng thường là chỗ dựa và là niềm tự hào của dòng tộc. 
Nhiều dòng họ đã lập nên những quỹ khuyến học để khuyến khích các bạn trẻ nỗ lực học tập

Hàng năm, vào những ngày trọng đại của dòng họ như ngày giỗ tổ, ngày lễ tết, con cháu nội ngoại từ khắp nơi hội tụ về từ đường để tưởng nhớ vong linh ông bà tổ tiên, đọc cho nhau nghe tộc phổ, nhắc nhở con cháu mối quan hệ thiêng liêng gắn bó họ hàng, chọn nêu gia đình tiêu biểu nhất làm tấm gương về nhân cách, đạo đức cho dòng họ noi theo. Vào những ngày lễ, các gia đình trong cùng dòng họ cùng tới nhà nhau chúc tết hoặc vào những ngày giỗ tổ, mỗi một gia đình trong cùng dòng họ lại cử ít nhất một đại diện đến nhà của Trưởng họ để tổ chức một bữa cơm liên hoan, tạo không khí gẫn gũi, đoàn kết gắn bó giữa các thành viên.
Cũng chính vì thế, vấn đề quan tâm nhất của dòng họ không phải là kinh tế mà chính là ở tư cách đạo đức và học vấn. Các thành viên trong các gia đình tiêu biểu của dòng họ đều ý thức mình phải sống mẫu mực, bởi vì dòng họ, làng xã đều chú ý đến gia đình mình. Mỗi việc làm của họ hoặc mang lại niềm vinh hạnh cho cả dòng tộc, cả làng xã hoặc ngược lại. Chính vì thế truyền thống văn hóa của dòng họ phải luôn luôn được gìn giữ và mọi thành viên phải nhớ câu tục ngữ “giấy rách phải giữ lấy lề”.
Cũng như ở quê hương tôi, mỗi dòng họ lại lập một quỹ khuyến học, nhằm hỗ trợ và khuyến khích mỗi bạn trẻ nỗ lực học tập. Hàng năm, mỗi một bạn trẻ đậu đại học lại được một phần thưởng của dòng họ, mặc dù phần thưởng không lớn về giá trị vật chất tuy nhiên nó lại có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần, bởi đó là sự ủng hộ và ghi nhận của cả dòng họ về chặng đường phấn đấu và nỗ lực học tập của mỗi bạn trẻ.
Không chỉ vậy, mỗi khi một gia đình trong dòng họ có công việc quan trọng như việc cưới xin, ma chay… là cả dòng họ lại cùng nhau tham gia. Mỗi khi trong họ có một người không may gặp ốm đau, bệnh tật, là những thành viên khác trong họ lại tới để thăm nom, chia sẻ… Không chỉ vậy, nhiều dòng họ lớn còn tham gia giúp đỡ nhau trong việc liên kết và phát triển kinh tế, những gia đình khá giả có thể cho các gia đình khó khăn trong họ vay vốn để làm ăn…
Có thể nói trong nền văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa, nhắc đến văn hóa dòng họ là người ta nghĩ tới một cộng đồng văn hóa mà trong đó cả cộng đồng đều yêu thương đoàn kết, đùm bọc, hòa hợp với nhau, gắn kết giữa cá nhân và tập thể, giữa cái riêng và cái chung… Điều này cũng được thể hiện trong việc nhiều dòng họ xây dựng từ đường, huy động lập chợ, xây dựng trường học, trùng tu đình miếu, cùng nhau xây dựng đường làng ngõ xóm… Đó thực sự là những giá trị văn hóa rất quý báu của cả dân tộc Việt Nam.
Thách thức trước thời đại hội nhập
Văn hóa dòng họ quý báu là vậy, nhưng rất khó để phủ nhận một hiện thực đó là: những giá trị tốt đẹp của văn hóa dòng họ đang có dấu hiệu bị mai một trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Trong thời đại ngày nay, trước sức ép của quá trình đô thị hóa, đặc biệt là những nơi có tốc độ đô thị hóa cao (như những vùng ven các đô thị lớn) thì sự mai một của văn hóa dòng họ càng trở nên rõ rệt. 
Văn hóa dòng họ đang dần bị mai một, đặc biệt là ở cuộc sống đô thị (ảnh minh họa)

Ở những đô thị lớn, mỗi gia đình đều không còn bị phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp nữa mà thay vào đó là đời sống công nghiệp, dịch vụ… mà ở đó, mỗi cá nhân đều trở nên bận rộn hơn, ít thời gian dành cho họ hàng, làng xóm hơn. Ở thời đại hội nhập, đặc biệt là ở giới trẻ thì ngoài việc học hành bận rộn, các bạn trẻ cũng có quá nhiều tác động xung quanh, những tác động về môi trường xã hội, về quan hệ xã hội, cộng với việc ngày càng có rất nhiều loại hình giải trí nên các bạn trẻ ngày càng “quên” đi những giá trị truyền thống quý báu của cha ông.
Ở thời đại hội nhập, giữa cuộc sống ngày càng năng động và hệ quả là những sức ép ngày càng nhiều hơn… mỗi cá thể đều trở nên sống nhanh hơn, lối sống “cá nhân chủ nghĩa” ngày càng phát triển thì tất yếu đã dẫn tới hệ quả là họ ngày càng ít quan tâm tới dòng họ, tới làng xã.
Đan xen trong tốc độ phát triển kinh tế thì ở xã hội công nghiệp hóa, những giá trị nề nếp, gia phong và truyền thống trong gia đình ở nhiều nơi cũng dần bị mai một, với nhiều gia đình ở các đô thị thì thời gian dành cho dòng họ là rất ít, chỉ những ngày giỗ lớn hay những dịp tết thì họ mới có điều kiện để trở về quê, tìm về với cội nguồn dòng họ của mình.
Thêm vào đó, trong thời đại hội nhập, ngoài những giá trị mang tính phi vật thể thì cả văn hóa vật thể như từ đường, gia phả, bia ký... trải qua thời gian cũng không còn được nguyên vẹn. Hiện tại ở nhiều địa phương, nhiều dòng họ thì vấn đề khôi phục và xây dựng lại từ đường, tìm lại gia phả…cũng đã gặp không ít những khó khăn.
Bảo tồn những giá trị quý báu của văn hóa dòng họ là vô cùng cần thiết (ảnh minh họa)

Như vậy có thể thấy, những giá trị của văn hóa dòng họ đang đứng trước thách thức ngày càng lớn trong thời đại hội nhập. Chính vì thế, để gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của cha ông thì cách tốt nhất là mỗi một cá nhân rất cần ý thức được một cách sâu sắc về những giá trị tốt đẹp đó để từ đó trân trọng và bảo vệ. Không chỉ vậy, các cơ quan quản lý ngành văn hóa cũng cần có thêm những giải pháp nhằm xây dựng và đẩy mạnh hơn nữa phong trào xây dựng đời sống văn hóa, tôn vinh gia đình văn hóa, hỗ trợ phục hồi văn hóa dòng họ, tôn vinh những dòng họ có đóng góp lớn cho xã hội…. Ngoài ra, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, của những người làm công tác văn hóa nghệ thuật… cũng cần được nêu cao hơn nữa, đó là việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, định hướng cộng đồng đặc biệt là với thế hệ trẻ về giá trị tốt đẹp của văn hóa dòng họ. Chỉ có sự ý thức của mỗi cá nhân đồng thời là sự chung tay của toàn xã hội thì những giá trị của dòng họ mới luôn được gìn giữ và phát huy, góp phần tạo nên nền văn hóa Việt luôn tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
L.Sơn
spacer
do