THẤU ĐỊA LỤC THẬP LONG QUYẾT ĐOÁN CÁT HUNG






  TRẦN VĂN ĐƯỜNG
  Biên dịch



THẤU ĐỊA
QUYẾT ĐOÁN
KIẾT HUNG







LỜI MỞ ĐẦU

Phong thủy là niềm tin trong cuộc sống của nhiều người để giải tỏa những lo âu do thị phi bàn bạc. Có thể không cần dùng hai từ phong thủy để xác định một quan cảnh sống hợp lý, hài hòa, thỏa mái; từ cách nhìn không vướng mắt, đến chỗ nằm chỗ ngồi an tâm đã là phong thủy trong cuộc sống.
Tuy nhiên chiều sâu của phong thủy được nhiều tiền bối gạn lọc, tích lũy lại thành sách vở cho đời là vấn đề cần giải mã đúng, ứng dụng có khoa học, tất nhiên sẽ tránh trước được những thiếu sót không đáng có. Mỗi tiền bối soạn một sách dựa trên cơ bản của âm dương dịch lý biến hóa qua 64 phép chập của tám quẻ  theo hậu thiên hoặc phối hợp âm dương trên tiên thiên bát quái để định kiết hung. Sở dĩ mỗi vị thầy dụng một sách vì nhìn nhận của thầy nằm trong tư duy có thể có phần bảo thủ của thầy. Điều quan trọng là kết hợp tại đâu cho khoa học, kiểm nghiệm thực tế từ đâu để kết luận nên làm hoặc nên tránh.
Lòng không yên cuộc sống sẽ chưa yên, do đó ta đi tìm nơi nương tựa mà cơ bản là điều người xưa đã xác nhận.

Thấu địa lục thập long quyết đoán cát hung là tài liệu viết bằng chữ Hán của Đài Loan, một phần trong một tác phẩm phong thủy ấn bản năm 1946. Đây là cơ bản của khoa phân châm lý khí, không thể thiếu nhưng chỉ một thấu địa lục thập long là thiếu để tìm cát sự. Hai yếu tố khác cần có để hội đủ trong phạm vi xác định âm phần không bao gồm hung niên, trạch nhật. Thứ nhất là định đúng la bàn khi mỗi năm địa từ trường đẩy lệch kim nam châm theo tuần dương, tuần âm có biên độ rộng đến 23 độ trong khi chỉ cần 5 độ là đã có thể rơi vào vị trí hung hướng, sát sơn. Thứ hai là kết hợp khoa loan đầu định cuộc, nếu lý khí đạt vị thủ tọa túc hướng tốt nhưng không thể để đầu xoay vào hướng thấp hoặc trực xung thủy xạ. Không ai là nhà nghiên cứu phong thủy cả, tất cả chỉ là người tìm tư liệu - tổng hợp - ứng dụng, hơn thua là vấn đề biết loại bỏ những thủ thuật đưa thiên hạ vào chốn mê hoặc và biết vận dụng những phát minh chuẩn xác hiện đại. Đừng vội đề cao mình là thầy giỏi, quan trọng là đủ sách để ứng dụng chưa chứ không phải lợi khẩu nói hay là giỏi, không rõ thì không nên làm đừng đổ hết phần họa phước vào phước chủ,

Mỗi vị trí, mỗi hướng tốt xấu chưa có thầy nào nhìn nỗi vũ trụ vận hành tạo ra ảnh hưởng ấy, nhưng tất cả như một bài toán (dịch lý) có lời giải sẵn, sự xung khắc hòa hợp dựa trên thể dụng của vũ trụ trước mắt ta. Tóm lại ta không cần biết số p do đâu và bao giờ là hữu hạn mà ta là người thừa hưởng, ứng dụng phong thủy cũng giống vậy.

Muốn sử dụng được Thấu địa lục thập long quyết đoán cát hung trước hết phải biết xem la bàn. Sở dĩ tôi giới thiệu đến thân hữu tập sách nầy vì có những khuôn khổ ngày nay đã khép việc chôn cất theo quy hoạch, việc của chúng ta là tìm tránh những xung phạm theo sách vở chứ không còn quyền định cuộc trong một quần thể nghĩa địa quy hoạch. Như vậy ta có thể chấp nhận với thực tế để chế lại trong phạm vi còn được phép.

Hy vọng tập sách nầy tuy ít nhưng góp phần lớn trong việc tạo phước cho nhiều nhà, giải tỏa được một phần lo âu khi người thân nằm xuống nơi lòng đất chờ được hóa thân.



Thành phố HCM, mùa thu năm Quý Tỵ (2013)
Trần Văn Đường
Tranvanduong.sg@gmail.com






spacer

VĂN HÓA DÒNG HỌ - DI SẢN KẾT NỐI HUYẾT THỐNG VÀ THÂN TÌNH MỌI NHÀ


             
               VĂN HÓA DÒNG HỌ
---
---
DI SẢN KẾT NỐI HUYẾT THỐNG VÀ THÂN TÌNH MỌI NHÀ
Trần Văn Đường, chuyên viên gia phả TTNCTHGP - Viện LSDH Tp HCM

Cụm từ Văn Hóa Dòng Họ được khai sinh vào thập niên đầu của thế kỷ 21, rất đơn giản nhưng khi phân tích mới thấy rất sâu sắc đối với các dòng họ Việt Nam.
Văn hóa dòng họ Việt Nam hay văn hóa của các họ người Việt Nam là sợi dây ràng buộc huyết thống nhiều đời, nhiều thế kỷ của người Việt Nam, là con đường dẫn dắt từng thành viên bước ra từ gia đình để đến với gia tộc, với đại gia tộc, với đồng tông, với các quan hệ các tộc họ và cuối cùng là quốc tổ được gói gọn trong hai tiếng đồng bào. Việt Nam là một trong số rất ít của các nước Châu Á có nét văn hóa sâu đậm tính nhân văn, gắn liền với đạo đức truyền thống giống nòi, luôn quý trọng những gía trị riêng tư thuộc về dòng họ và tổ tiên đã giữ gìn cẩn trọng như sợ dòng máu họ sẽ bị loãng đi làm cho con cháu xa lìa nguồn cội tổ tông.
Nét văn hóa dòng họ đó đang hiện diện ở đâu?
Trước tiên là con người mang phong thái, thể diện của nhân tố từ cốt cách gia phong của mỗi gia đình đang chịu ảnh hưởng những ước lệ và giá trị đạo đức truyền thống của họ tộc. Ai cũng có tình cảm và tập quán của gia đình, họ khó có thể chối bỏ gia đình để chấp nhận một sự thật xấu hơn để giẫm lên đau thương của gia đình và không thể quên niềm tự hào gia đình, gia tộc. Gia đình đã tạo ra con người mang văn hóa gia đình thì chính dòng họ tạo ra gia đình có văn hóa dòng họ, ngược lại con người văn hóa làm nên vẻ vang của gia đình và dòng họ tạo sự ảnh hưởng sâu đậm nét văn hóa cho nhiều dòng họ. Mọi gia đình, mọi gia tộc đều có sự vinh quang để tự hào dẫu tộc họ, họ lớn hay nhỏ, gia đình giàu hay nghèo vẫn gắn liền với lịch sử nên phải thăng trầm, chuyển đổi, có thể không giống nhau trên phương diện bề dày thời gian trú ngụ, chưa đủ lực để phô trương nhưng chiều sâu văn hóa đã rất phong phú.
Họ nội, họ ngoại là những cánh cửa để đến tiếp nhận giá trị chân thực tình cảm của một nửa dòng máu cha và một nửa còn là dòng máu mẹ làm ảnh hưởng đến sự phát triễn trong họ nội nên mỗi dòng họ có một hoạch định riêng giữ gìn nền nếp của họ.
Làm người sợ nhất là làm ô nhục gia đình, tổ tông; đó chính là tình cảm tìm ẩn trong tình yêu gia tộc, là động lực phát sinh ra nhiều hình thức làm đẹp dòng họ. Mọi người hãy dành vài phút đánh thức tiềm thức mình, chắc chắn văn hóa dòng họ sẽ hiện diện với mình như một trang nghĩa tình có sẵn.
Xa hơn nữa trên phạm vi cả nước, sự kết nối với đồng tông, mọi người đều thầm hiểu ra rằng ta có chung một cội nguồn nguyên thủy, mọi người đều cảm nhận trong máu họ có nhiều ít giống nhau về huyết khí nguyên sinh để gần lại với nhau, cùng tìm ra một lịch sử để tự hào, cùng tìm ra một chặng đau thương để xót xa. Lấy ví dụ, người họ Trần luôn tự hào và cảm nhận dòng máu Đông A mang theo hào khí đang chảy trong họ dù rất nhiều đời vẫn không khô cạn và các dòng họ khác cũng có điều vinh quang để hãnh diện về tổ tiên mình. Sự lan tỏa không còn giới hạn trong dòng họ, trong đồng tông mà đã đan xen tình dân tộc, hướng về với Vua Hùng, với giòng giống Lạc Hồng, với tổ quốc Việt Nam để cùng tự hào dân tộc 4000 ngàn năm văn hiến, cùng đau nỗi đau 100 năm đô hộ giặc Tây, cùng hờn căm 1000 năm Bắc thuộc. Sự hình thành đó, tinh thần đó chỉ có bắt đầu trong văn hóa dòng họ Việt Nam.
Một chuỗi kết nối từ gia đình, họ tộc đến dân tộc và đất nước được vun bồi, muốn duy trì sự kết nối ngàn đời cho huyết thống không mờ nhạt, cho thân tình không mai một, nghĩa đồng bào không cạn kiệt cần phải phát huy và bảo tồn các hình thái di sản văn hóa dòng họ.
Đó chính là đạo lý sống của con người mà then chốt là kỷ cương gia đình và dòng họ, phải được luật pháp của nhà nước bảo hộ. Bất kỳ ai cũng phải hiểu biết quyền thừa hưởng giá trị đạo lý gia đình và phải có bổn phận thực hiện những việc tạo ra sản phẩm đạo lý gia đình, dòng họ.
Không ai dám phủ nhận tình yêu của kẻ sanh thành đã đặt để trên họ, không ai chối bỏ mầm sống đang mang theo hạt giống tâm hồn của chính họ do cha mẹ và tổ tiên ban tặng, dù họ có theo một đạo giáo nào ngoại trừ kẻ mất nhân phẩm. Cha mẹ sanh ra con và nuôi dưỡng không kỳ hẹn thời gian và không gian, không có tình yêu thương nào lớn hơn tình yêu cha mẹ dành cho con. Tình yêu ấy trải dài đến thế hệ kế tiếp là cháu, bao nhiêu đánh đổi trong cả một đời, khoảng cách cuối cùng cũng chỉ cho con, cháu, chắc, chít; họ đang tiếp nối nhau hoàn thành sứ mệnh trồng người cho một dòng họ.
Gia tài vật chất của tổ tiên không đủ để trang trải một cách đồng đều trên mọi con cháu nhưng gia tài tình yêu của tổ tiên thì bao la đang là bóng che cho tất cả. Kẻ sanh thành không tham vọng người kế thừa phụng sự gì cho họ mà chỉ duy nhất một ước mơ là kẻ được họ sanh ra xứng đáng làm người, con người đủ nhân nghĩa, trí tuệ và đức độ. Chúng ta không thể quên đi công ơn, không thể không quý mến và không thể không trân trọng một tình thương đang thầm lặng trong trái tim người Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam từ lâu hình thành một di sản văn hóa dòng họ.
Với tình thương, với niềm tin, với mong đợi của tổ tiên ta nghĩ gì, trách nhiệm mỗi người cần tìm lại những gì, tìm nơi đâu và báo đáp như thế nào? Chúng ta nên bước theo dấu vinh quang tổ tiên từng bước, chúng ta hãy vun bồi đạo lý, tình thương, tinh thần dân tộc từ trong dòng họ cho lớp lớp hậu sanh được kế thừa. Lễ nghi, di chỉ, văn tự, di tích hiện hữu được bảo tồn và đang phục dựng là nền tảng phát triển chúng ta cần bàn dưới đây.
1/ Không gian thờ tại gia đình:
Mọi gia đình Việt Nam đều bày trí thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ và người thân đã từ trần trong nhà. Mục đích để tỏ bày lòng kính yêu và nhớ thương người thân của gia đình, nhưng sự bày ra không chỉ trong suy nghĩ đó mà tổ tiên đã muốn con cháu họ thấy rằng họ đang hiện diện ở đó để từng thế hệ có mối quan hệ huyết thống cùng về sum họp trong những ngày giỗ chạp, những ngày lễ truyền thống dân tộc. Không gian thờ tự, linh vị, di ảnh đã hiện thực hóa một đại gia đình có đủ ông bà, cha mẹ, anh em, đánh thức tình cảm thiêng liêng mỗi con người, làm gần lại trong hai tiếng cốt nhục tình thâm.
2/ Nhà thờ tộc- Nhà thờ đại tộc:
Sau bốn đời tổ, đời tổ thứ năm được quy tụ thờ tại nhà thờ tộc như câu nói dân gian "ngũ đại mai thần chủ", thờ các tổ từ đời thứ năm trở về trước cho đến vị đầu phái hoặc vị tổ của tộc được bày trí theo một cung cách khác hơn gia đình. Bởi lẽ, kinh phí hương hỏa đến đó không còn đủ để tạo ra cơ hội cho con cháu tụ tập tại gia đình mà hiệp kỵ tòng theo ngày húy kỵ của vị tổ tộc. Như vậy, sau gia đình là nhà thờ tộc vẫn là nơi để con cháu sum họp, sợi dây kết nối dài hơn để trói buộc nhiều thế hệ trong những ngày giỗ tộc.
Tổ tiên không chờ đợi cháu con về dâng lễ phẩm, cúng tế thỉnh rước long trọng tại ngôi từ đường trong những dịp lễ mà đó là nghi thức mang tính tâm linh con cháu cần thực hiện để không quên mình là con cháu. Trong khung cảnh trang nghiêm khói hương lan tỏa ca ngợi linh thiêng tổ tông, gia thế dòng họ; các hoành phi câu đối thâm sâu ý tứ chuyển tải cả lịch sử dòng họ mình là lúc cháu con nội ngoại đang lắng nghe và đang tìm kiếm sự gần gũi với tổ tiên với anh em, để cùng vinh danh mình, biết rỏ hơn về mình.
Do phát triễn số người, số hộ trong họ, quá đông hội đồng gia tộc chia thành chi tộc, nhà thờ cựu vẫn giữ và trở thành nhà thờ đại tộc. Nơi đây phụng thờ vị sơ tổ của dòng họ và các đời kế tiếp đến vị tổ của các chi họ, thờ phụng tại nhà thờ tộc. Ngày giỗ ở đây sẽ quy tụ cháu con toàn tộc, bao gồm các chi họ, ý nghĩa và tinh thần ngày hội giống giỗ tộc, lễ nghi không khác nhưng có thể hằng năm hoặc ba năm tổ chức một lần. Sự kết nối lớn hơn, sự chia sẻ có tầm ảnh hưởng sâu xa hơn. Dưới bóng tổ tiên, họ có cơ hội tỏ bày tình cảm bằng nhiều cách nãy sinh những chương trình tương tế, khuyến học, học bỗng ... xây dựng phát xuất từ yếu tố văn hóa.
3/ Lăng mộ:
 Lăng mộ, nơi gửi hình hài người quá cố, ở đây là người thân của gia đình họ hàng, chút thương ngày trước chắc chắn phải còn vương vấn quanh đây. Sống nhà thác mồ, người qua đời cũng muốn ấm thân, tất nhiên phận làm con cháu phải biết nhìn xung quanh. Ngày thanh minh tảo mộ một nén hương nhớ người nằm đó, khói bay quấn quýt  không khỏi luyến thương bên lòng người đang sống. Cha nặng lòng, con cảm mến, anh em cả họ đồng nghĩ suy tự nơi đó gắn nhau huyết thống, gần đó bao người cũng cảm thông là văn hóa. Con cháu ngồi bàn xây mộ tổ, gia đình chung cùng sửa mộ mẹ cha, cả nghĩa địa như phố phường nho nhỏ không phải là hoang phí mà chính là văn hóa của dân ta để quê hương là một phần xương thịt người thân.
4/ Gia phả:
Bằng chứng đích thực nhất của mối dây thế thứ ràng buộc gia tộc và quan hệ tình thân từ nhiều họ ngoại là gia phả. Gia phả đã mở cho chúng ta đường về quá khứ tìm dấu vết tổ tiên đi qua thời gian, từng chặng gian nan lúc huy hoàng và cả ân tình nghĩa trọng đều được ghi trên đó. Chúng ta không có gia phả là chúng ta đang lạc loài, không có tổ tông, không đối chứng được khi tìm gốc tích. 
Nước có sử nhà có phả, vạn vật hồ thiên nhân sanh hồ tổ, chúng ta đừng quên điều đó, đừng mong đợi tìm ra dòng máu trong họ đạo hay hộ tịch chính quyền.
4/ Đình làng:
Sở dĩ đề cập đình làng khi bàn về văn hóa dòng họ vì chúng ta phải hiểu đình làng đúng nghĩa đã thờ ai. Đầu tiên đình là nơi dừng chân của mỗi địa phương, kế đến dùng làm cơ quan của hội tề làng, sau cùng thờ Bổn Cảnh Thần Hoàng sắc phong "Lệnh cho Thần Hoàng bổn cảnh hộ quốc tí dân, dân có bổn phận thờ tự", cách đối đầu với Pháp để giữ đất của vua Tự Đức (nơi nào có sắc vua nơi ấy dân của triều đình). Nhưng đó là nơi thờ Tiền Hiền, những tổ tiên của các họ đầu tiên đến phá cỏ cây lập làng. Ngôi nhà chung của các họ, chỗ chư tộc cùng sum họp hội hè, họ đã ngồi chung với nhau như tổ tiên họ ngồi trên hương áng, tình quê tình làng nghĩa xóm có được từ đây bắt nguồn trên văn hóa dòng họ.
5/ Ban Liên Lạc dòng họ - Nhà thờ đồng tông:
Ban liên lạc dòng họ, huyện, tỉnh, vùng và nước Việt Nam được hình thành dựa trên tinh thần văn hóa dòng họ nhằm gìn giữ đạo đức, phát huy các phong trào lợi ích vì dòng họ. Mỗi họ đã chọn một lịch sử, một Tiền bối họ mình có sự nghiệp vẻ vang nhất để làm tổ họ cả nước, để cuối cùng kết nối với Vua Hùng tổ của trăm họ.
6/ Trung Tâm UNESCO Văn Hóa Dòng Họ Việt Nam:
Quan niệm khác biệt của văn hóa phương Tây, ông bà cha mẹ nuôi con là trách nhiệm, quan hệ gia đình rời rạc, xã hội chi phối hầu như không cần huyết thống, vợ lấy cồng lấy theo họ chông thậm chí chọn họ một cách tự do. Bởi vậy Liên Hiệp các Hội UNESCO không ngần ngại thâm nhập văn hóa dòng họ Việt Nam thông qua tổ chức UNESCO thế giới. Mục đích tìm hiểu và nhân rộng nét phong phú cho nhân loại, nhằm giáo dục cho xã hội có một đức tính cao đẹp. Đúng vậy, TT UNESCO nghiên cứu văn hóa dòng họ Việt nam đã có quan hệ hầu hết các tộc họ, họ đã thừa nhận dòng họ Việt Nam mới sâu sắc, mới thật sự thân thiện và tìm phương hướng chia sẻ kinh nghiệm đến mọi nơi.    
Để khẳng định sức mạnh văn hóa dòng họ của con người trong xã hội Việt Nam, qua thời gian đã có những vấn đề cho chúng ta nhìn nhận.
- Thiên Chúa giáo truyền bá vào Việt Nam, giáo lý dạy không thờ lạy thánh thần ma quỷ, hơn 200 năm, giáo dân quay lưng với việc thờ cúng tổ tiên, tách rời văn hóa dòng họ, họ đã cô đơn lạc loài giữa cộng đồng dân tộc. Cuối cùng các cha xứ đã nhìn nhận được sai trật tìm cách đưa giáo dân về lại bản sắc xưa, lập lại bàn thờ tổ tiên, về lại các từ đường dâng hương cùng dòng họ, nhận lại tình yêu thiết thực từ tổ tiên.
- Sau một thời gian dài lặng im gần như cấm đoán dưới thời bao cấp, ngày giỗ của gia đình đơn sơ hóa trong sự khó khăn do quản lí của nhà nước, ngày giỗ tộc, ngày chạp mả không còn, nhà thờ tộc hoang vắng. Một thực tế của suy sụp văn hóa dòng họ dẫn đến hệ lụy người cùng huyết thống, cháu con nội ngoại thành người dưng, thêm vào đó ba đời trực hệ được lấy nhau đã xô đẩy xã hội vào bờ vực loạn luân, xa lìa thuần phong mỹ tục.
Khi nhà nước bắt đầu công nhận những di tích lịch sử ở nhiều nơi, nhiều cấp vào thập niên cuối cùng thế kỷ 20, tín hiệu văn hóa dòng họ được khôi phục, mọi người thấy rằng không thể xóa bỏ dù ở trường hợp nào. Văn hóa dòng họ vẫn mãi là sợi dây không thể vứt bỏ, được trải ra từ nhiều đời tổ tiên để mọi nhà, mọi người vin vào đi theo gìn giữ giống nòi, không để lạc mất nhau, không từ bỏ cội nguồn và tình thân cả dân tộc cũng được tô bồi.

Ngày 10 / 7 / 2018 
tại OREGO USA.







spacer
do