Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa dân gian. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa dân gian. Hiển thị tất cả bài đăng

Lạ lùng vị Tể tướng nhờ đi tắm bị trộm áo quần mà lấy được vợ

(Dân việt) Thuở hàn vi, một lần Tể tướng Nguyễn Văn Giai đi tắm bị mất trộm hết quần áo, được một cô gái lén để cho mảnh vải đóng khố về. Khi đã đỗ đạt, ông hỏi cưới cô gái ấy để trả ơn.
Nguyễn Văn Giai (1553 – 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, là công thần có công phò giúp nhà Lê trung hưng. Ông là người nổi tiếng chính trực và giữ nghiêm pháp luật triều đình, được người đương thời nể trọng.
Tể tướng Nguyễn Văn Giai quê ở thôn Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Xuất thân trong một gia đình có tổ tiên từng nhiều đời đỗ đạt, như Trạng nguyên Nguyễn Văn Long, Bảng nhãn Nguyễn Văn Quý, Thám hoa Nguyễn Văn Cẩn, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Văn Lâm, nhưng đến đời người cha là Nguyễn Văn Củng thì chỉ còn là một khóa sinh nghèo.
Vốn có sức khỏe bẩm sinh, Nguyễn Văn Giai phải làm đủ các nghề khó nhọc như gánh củi thuê để lấy tiền mua giấy bút để theo học một ông Thái học người cùng làng.
Một hôm gánh thuê về, trời nóng bức, Tể tướng Nguyễn Văn Giai khi ấy lội xuống tắm ở cái ao trước cửa nhà thầy học. Trong lúc đương bơi lội, quần áo trên bờ bị đứa vô lại nào lấy mất, ông phải ngâm mình dưới nước mãi không dám ngoi lên.
Bên kia ao là nhà một ông giám sinh, có cô con gái ra ao định giặt, nhưng thấy ông đương tắm đành phải quay vào. Một lúc nữa, trở ra lại thấy như vậy. Rồi một lúc nữa, cô kia ra, loanh quanh ở bờ ao, bỏ lại trên bờ mấy chục thước vải. Ông cảm lòng cô gái, lấy vải đó đóng khố rồi đi về nhà.
Năm 1579, nhà Lê trung hưng mở khoa thi ở Thanh Hóa (khi đó kinh thành Thăng Long vẫn do nhà Mạc chiếm giữ), ông thi đỗ Giải nguyên. Năm 1580, vua Lê mở khoa thi Hội đầu tiên ở sách Vạn Lại, ông đi thi tiếp, đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình đỗ luôn Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ. Ông là vị Tam nguyên đầu tiên của thời Lê trung hưng.
Sau khi thi đỗ, ông đến nói với ông giám sinh, hỏi cô gái ấy làm vợ thứ. Sách Tang thương ngẫu lục của hai tác giả Phạm Đình Hồ, Nguyễn Án kể rằng, ông giám sinh phải phân trần với ông Giai:
– Con gái tôi vô duyên. Hôm qua, tôi đã trót nhận lời gả cho một người học trò của tôi, cũng là bạn đồng khoa của ông đấy. Xin ông đừng lấy làm lạ sao tôi lại từ chối.
Ông đồng khoa kia đến, hai bên tranh biện mãi, không giải quyết xong. Ông nói:
– Tôi vốn đã có vợ từ lâu, không phải dám tham sắc đẹp để mua cười với bạn. Chỉ vì hồi trẻ, hàn vi, từng được đội ơn người khuê các để mắt xanh đến, nên đã dốc lòng mến yêu từ đấy. Giời đất quỷ thần hẳn đều soi xét, lòng này có dám man muội đâu.

Nhân kể rõ câu chuyện ngày xưa. Ông giám sinh vào trong nhà, hỏi chuyện con gái thì con nói cũng đúng như vậy. Bèn gả cho ông Giai. Đó là bà phu nhân thứ ba của ông, ông yêu quý bà như bà cả vậy.
Đền thờ tể tướng Nguyễn Văn Giai. 

Sau khi đỗ Đình nguyên, Nguyễn Văn Giai được chúa Trịnh Tùng bổ nhiệm chức Tán ký lục trong quân đội. Ông đóng vai trò tham mưu kế sách quân sự trong trướng cho Trịnh Tùng, có nhiều công lao vào việc đánh bại nhà Mạc, chiếm lại kinh thành Thăng Long năm 1592. Năm sau, Nguyễn Văn Giai được thăng chức Đề hình Giám sát Ngự sử.
Năm 1608, ông được thăng làm Đô ngự sử. Ông có nhiều công lao trong việc bang giao với nhà Minh, đánh dư đảng nhà Mạc ở Cao Bằng, nên được thăng lên đến chức Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, nắm việc cả sáu Bộ kiêm Đô ngự sử, hàm Thiếu bảo, tước Lễ quận công, được xem là người có công lao đứng đầu lúc đương thời.
Ông mất khi đang tại chức năm 1628, thọ 75 tuổi, được triều đình truy tặng chức Đại tư đồ.
spacer

Tuần phủ Lê Trung Ngọc với việc định lệ Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương

1.Lê Trung Ngọc là quan Tuần phủ tỉnh Phú Thọ (từ tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921).
Ông sinh ngày 20 tháng 10 năm 1867 (tức ngày 23 tháng 9 năm Đinh Mão), trong một gia đình nho học; quê ở làng Liên Thành (xưa là ấp Tân Quảng), tổng Dương Minh, huyện Bình Dương, tỉnh Chợ Lớn (nay là phường 5 và phường 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh).

Tuần phủ Lê Trung Ngọc (1867 – 1928).(Ảnh do cháu nội cụ cung cấp năm 2009)
– Năm 1883, sau khi học xong trường Hậu Bổ Cây Mai Sài Gòn (Collège dés Stagiaires), ông ra đất Bắc làm việc trong chính quyền các cấp của triều đình nhà Nguyễn.
– Tháng 1 năm 1903: Làm Tuần phủ tỉnh Bắc Ninh.
– Tháng 7 năm 1903: Làm Thương tá tỉnh Vĩnh Yên.
– Tháng 3 năm 1908: Làm Án sát tỉnh Vĩnh Yên; sau đổi làm Án Sát tỉnh
Phúc Yên.
– Tháng 6 năm 1909: Làm Án Sát tỉnh Sơn Tây.
– Tháng 2 năm 1912: Làm Tuần phủ tỉnh Sơn Tây.
– Tháng 4 năm 1913: Làm Tuần phủ tỉnh Bắc Giang.
– Tháng 12 năm 1913: Làm Tuần phủ tỉnh Quảng Yên.
– Tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921: Làm Tuần phủ tỉnh Phú Thọ.
– Tháng 2 năm 1921: Làm Tổng đốc tỉnh Hải Dương.
– Tháng 1 năm 1924: Làm Tổng đốc tòa Thượng thẩm, Hà Nội.
– Tháng 7 năm 1927: Nghỉ hưu tại Hà Nội.
– Ngày 8 tháng 6 năm 1928 (tức ngày 21 tháng 4 năm Mậu Thìn): ông mất tại Hà Nội; hưởng thọ 62 tuổi.
Tuần phủ Lê Trung Ngọc còn là một trong những người sáng lập ra Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương tế ở Hà Nội (hiện còn bia khắc tên tại 79 phố Hàng Trống – Hà Nội).
Ông đã được tặng thưởng nhiều Huân chương như: Kỷ niệm chương Bắc kỳ năm 1888; Huân chương Hiệp sỹ con rồng An Nam năm 1890; Huy chương bạc hạng nhất năm 1891; Huy chương vàng 1892; Hồng Lô tự thiếu khanh năm 1896; Kim Thánh năm 1898; Huân chương Viện hàn lâm năm 1904; Huân chương quốc gia Vương quốc Căm Pu Chia năm 1913…
2.Trong những năm làm Tuần phủ Phú Thọ (1915 – 1921) Lê Trung Ngọc đã dành nhiều tâm huyết và công sức tu bổ, tôn tạo đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Ông sống gần dân và đặc biệt quan tâm tới dân. Ông nhận thấy tại xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có Lăng miếu thờ phụng Quốc Tổ Hùng Vương, hàng năm nhân dân cả nước nô nức tìm đến lễ bái; họ thường tự chọn ngày tốt theo bản mệnh từng người vào các tháng trong suốt cả năm, song tập trung vào mùa xuân và mùa thu chứ không định rõ ngày nào, trong khi tục lệ của dân bản xã lại lấy ngày 11 tháng 3 Âm lịch hàng năm kết hợp với thờ Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ làm lễ tế Tổ tại Hùng Vương Tổ miếu. Như vậy thời gian lễ bái duy trì kéo dài triền miên, vừa tốn kém tiền của, lãng phí thời gian lại vừa phân giảm lòng thành kính cũng như sự trang nghiêm tri ân công đức các Vua Hùng.
Đầu năm 1917, ông trực tiếp làm bản tấu trình với Bộ Lễ xin định lệ hàng năm lấy ngày 10 tháng 3 Âm lịch để tổ chức quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, trước một ngày so với ngày hội tế Hùng Vương, Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ của dân xã bản hạt; đồng thời cũng xin miễn trừ các khoản đóng góp của nhân dân địa phương vào các kỳ tế lễ mùa thu.
Ngày 25 tháng 7 năm 1917 (Niên hiệu Khải Định năm thứ nhất), Bộ Lễ ban hành công văn phúc đáp và chính thức định lệ ngày quốc tế / quốc lễ – Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch và quy định nghi thức, nghi lễ, lễ vật tế Tổ hàng năm.
Bia “ Hùng miếu điển lệ bi ” được Hội đồng kỷ niệm tỉnh Phú Thọ lập và  dựng tại đền Thượng – KDT Đền Hùng mùa xuân năm Quý Hợi, niên hiệu Khải Định năm thứ 8 (năm 1923), đã ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng này (Hiện bia được bảo tồn tại đền Thượng trong KDT lịch sử Đền Hùng).
3.Tên tuổi quan Tuần phủ Lê Trung Ngọc kể từ đó được sử sách ghi chép với tư cách ông là tác giả của việc định lệ Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm.
Tuần phủ Lê Trung Ngọc luôn được người đời tôn trọng vì ông là ông quan gần dân, thương dân, cảm thông với nỗi khổ của người nông dân; đồng thời ông cũng là người có tư tưởng tiến bộ, có ý thức tiết kiệm ngân khố của dân, của nước.
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ, mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm ”.

Năm 2017, kỉ niệm 100 năm sự kiện lịch sử định lệ chính thức Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương (Tổ chức nghi lễ cấp quốc gia), ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm. UBND tỉnh Phú Thọ chủ trì lễ dâng hương tưởng niệm, tri ân công đức các Vua Hùng, có sự tham gia góp giỗ trực tiếp của Thành phố Hà Nội và các tỉnh: Thái Bình, Bình Phước, Bến Tre.

Với ý thức hướng về cội nguồn dân tộc , bài viết này nhằm cung cấp tư liệu lịch sử và giới thiệu xuất sứ của việc định lệ quốc lễ ngày GTHV; đồng thời cũng cung cấp thông tin về sự kiện lịch sử gắn với cuộc đời và sự nghiệp của quan Tuần phủ Phú Thọ (1915 – 1921) Lê Trung Ngọc là người có công đầu trong việc chính thức định lệ ngày quốc lễ trọng thể này./. 
Phạm Bá Khiêm – Chủ tịch Hội VNDG tỉnh Phú Thọ
Theo baotanglichsu.vn
spacer

Hai vùng đất phát đế vương nổi tiếng Việt Nam

Ở Việt Nam, nói đến đất đế vương thì phải kể tới vùng đất Thanh Hóa và Cao Bằng. Nếu Thanh Hóa được xem là đất “đế vương chung hội” bởi rất nhiều vua chúa trong lịch sử đều phát tích từ vùng đất này; thì Cao Bằng được xem là đất “đế vương dung thân”, có thể giúp vua giữ gìn phúc khí, cũng có thể sinh ra bậc vương giả.

(Ảnh tổng hợp)

1. Đất “đế vương chung hội”

Những nhân vật lịch sử kiệt xuất xuất thân ở Thanh Hóa có thể kể đến như: Bà Triệu (huyện Yên Định, Thanh Hóa), Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (Ái Châu, Thanh Hóa), Lê Đại Hành[1] (Ái Châu, Thanh Hóa), Hồ Quý Ly (Đại Lai, Thanh Hóa), Lê Thái Tổ (làng Chủ Sơn, Thanh Hóa), Hoàng tộc Nguyễn (Hà Trung, Thanh Hóa), Chúa Trịnh Kiểm (huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa)…
Dưới đây là một số địa danh linh thiêng tại đất Thanh Hóa:
Đỉnh Ngàn Nưa
Núi Nưa là dãy núi đi qua 3 huyện Triệu Sơn, Nông Cống, Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép rằng: “Núi Nưa tên chữ là Na Sơn, mạch núi từ Phủ Thọ Xuân kéo đến chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận Tổng Cổ Định thì nối vọi lên nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa.”
Theo tài liệu khoa học, quần thể Núi Nưa có mạch núi bắt nguồn từ dải Trường Sơn, vươn về phía biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam; có hàng ngàn ngọn núi lớn nhỏ trùng điệp phân bổ đều khắp trên diện tích 55 km2, xung quanh là 99 ngọn núi tựa như voi phục chầu về đỉnh, nên người dân gọi là Ngàn Nưa. Trên đỉnh núi cao nhất Ngàn Nưa, có sơn cao thủy tụ, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa.
Tại núi Nưa vào năm 248, Bà Triệu cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ chống lại ách đô hộ của quân Ngô. Núi Nưa chính là căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
Tranh Bà Triệu cưỡi voi trắng.
Nhiều ẩn sĩ, danh nhân từ xưa đến nay đều có viết về ngọn núi này, trong dân gian vẫn lưu truyền câu: “Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến!” nghĩa là “một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ!”
Vùng núi Lam Sơn
Vùng núi Lam Sơn được xem là nơi phát tích của triều đại nhà Lê. Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” có mô tả rằng: Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn chợt thấy có đàn chim đông đúc đang bay lượn như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”.
Người Việt có câu “đất lành chim đậu”, hình ảnh đàn chim đông đúc bay lượn dấu hiệu vùng đất lành. Sau khi cụ Hối dời nhà về Lam Sơn thì 3 năm sau đã gây dựng được sản nghiệp lớn và làm quận trưởng một phương, trong nhà có cả ngàn gia đinh.
Đến lúc Lê Lợi được sinh ra đã “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tượng đài Lê Lợi ở Thanh Hóa. (Ảnh qua wikipedia)
Lê Lợi được một nhân vật kỳ bí cho biết huyệt đất phát vương ở Chiêu Nghi, điều này được ghi chép lại trong cuốn “Lam Sơn thực lục” như sau:
Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng:
– Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn!
Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng:
– Sư già đã đi xa rồi.
Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thấy một cái thẻ tre, đề chữ rằng:
“Thiên đức thụ mệnh. Tuế trung tứ thập. Số chi dĩ định. Tích tai vị cập”. Nghĩa là: “Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới … tiếc thay!”
Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng:
– Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!
Nhà vua quỳ xuống thưa rằng:
– Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho?
Nhà sư nói:
– Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.
Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy.
Về sự việc này Lê Qúy Đôn có viết ngắn gọn trong “Đại Việt thông sử” rằng: “Khi vua làm phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát đế vương ở động Chiêu Nghi”.
Lê Lợi đưa thi hài của cha chôn vào đất này. Sau này khi Lê Lợi khởi binh chống lại quân Minh, nhưng bị một người chỉ điểm cho quân Minh biết ngôi mộ này, quân Minh sai người khai quật lên nhằm ép Lê Lợi đầu hàng.
Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lê Lợi sai 14 thuộc hạ thân tín là Trịnh Khả, Bùi Bị, Trương Lôi, Lê Nanh, Võ Uy, Bùi Quốc Hưng, Doãn Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Lê Xa Lôi, Trịnh Võ, Lưu Trung và Trần Dĩ đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt. Lê Lợi bèn chôn lại như cũ.
Sau 10 năm nổi dậy chống quân Minh, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua lập ra nhà hậu Lê. Kéo dài đến năm 1789. Sau này dù đến đời chúa nào, hay các cuộc khởi nghĩa nổ ra thì hầu hết đều mang danh “phò Lê” để danh chính ngôn thuận mà lấy lòng thiên hạ.
Hàm Rồng
Nằm ở phía nam sông Mã , Dãy núi Đông Sơn – Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá huyện Thiệu Hóa chạy men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi hình rồng. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa như đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng, ở đó có động Long Quang (mắt rồng), núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá nhô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long tị.
Núi Hàm Rồng linh thiêng của Thanh Hóa. (Ảnh qua namviettravel.com.vn)
Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép địa thế nơi đây là: “núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”.
Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi Con Voi…
Tương truyền khi Cao Biền đi qua Hàm Rồng thấy đất nơi đây rất quý, có thể phát vương, liền đưa hài cốt của cha chôn vào huyệt Hàm Rồng mong sẽ phát vương ở phương nam. Thế nhưng xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận, dù đã cố đưa vào nhưng vẫn bị đùn ra như thế.
Cao Biền biết đây là long mạch rất mạnh nên càng quý, vì thế mà quyết làm đến cùng, nên tán xương nhỏ để tung vào sườn núi. Nhưng vừa tung lên thì có muôn vàn con chim nhỏ cùng bay lên vỗ cánh vù vù làm xương cốt bay tứ tán. Cao Biền chỉ còn biết than linh khí nước Nam quá mạnh và linh thiêng, không thể cưỡng cầu.

2. Đất “đế vương dung thân”

Nếu Thanh Hóa được xem là vùng đất phát tích của vua chúa, thì Cao Bằng được xem là nơi đế vương dung thân, ẩn náu.
Thời nhà Mạc, khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế cuộc, Trạnh Trình đã đáp rằng: “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”.
Sơ đồ khu trung tâm của nhà Mạc ở Cao Bằng vùng Cao Bình – Nà Lữ. (Ảnh qua baocaobang.vn)

7 năm sau, vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long. Vua nhớ lời dặn của cụ Trạng, liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa.
Từ đó Cao Bằng được xem là đất dung thân, ẩn náu của các bậc đế vương.
Xưa kia khi Cao Biền được lệnh trấn yểm các vùng đất quý của nước Việt, đã xây thành Đại La – tiền thân của thành Thăng Long ở Hà Nội sau này, và thành Nà Lữ ở Cao Bằng. Về sau người Việt đã tìm cách hóa giải cách trấn yểm của Cao Biền.
Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm Nà Lữ và xây thành đá trên núi để phòng ngự.
Năm 1052 thủ lĩnh người Tráng (người Tày, Nùng) ở Cao Bằng là Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam và đưa quân sang tấn công bên đất Tống.
Đường tiến quân của Nùng Trí Cao tại Trung Hoa (Ảnh qua caobangpro.com)
Được sự ủng hộ giúp đỡ của người Thái, người Tày ở Quảng Tây, Nùng Trí Cao chiếm được rất nhiêu Châu bên đất Tống: Hoành châu, Quý châu, Cung châu, Tầm châu, Đằng châu, Ngô châu, Khang châu, Đoan châu, Ung Châu. Ông xưng Đế một phương. Sau này Nùng Trí Cao bị bại dưới tay danh tướng nhà Tống là Địch Thanh.
Mặc dù Nùng Trí Cao chỉ được xem là đế vương của người dân tộc Tày – Nùng, nổi lên đòi tự trị giữa Đại Tống và Đại Cồ Việt thời nhà Lý, nhưng dẫu sao đi nữa, ông cũng là một minh chứng cho sự linh thiêng của vùng đất Cao Bằng.
Núi Mắt Thần. Ảnh dẫn qua dulichcaobang.vn
Thác Nặm Trá cách núi “Mắt thần” khoảng 600 m
Đến nay, Cao Bằng được xem là nơi “tụ khí tàng phong” rất tốt đẹp với nhiều danh lam thắng như thác Bản Giốc, thác Nặm Trá, núi Mắt Thần, tạo ra nhiều sinh khí cho vùng đất này.
Trần Hưng - trithucvn
spacer

Chuyện vua Gia Long trả thù nhà Tây Sơn qua lời kể giáo sĩ Pháp

"Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn. Trước hết người ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ vua chết đã 10,12, năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần của vua đền bị quật lên...".





Trích dịch trong quyển: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine của Giáo sĩ La Bissachère viết năm 1807, và do Charles Maybon trình bày, Edouard Champion, Paris, 1920, trang 118-121.
 
Nguồn: Nguyễn Đắc Xuân, Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – Sơn lăng Hoàng đế Quang Trung (tái bản lần thứ 1), Nhà xuất bản Thuận hóa Huế – 2015, từ tr.358 đến tr.361)

Gia Long về Nam Hà, nghỉ ngơi vài tháng, rồi lo việc xử tội những kẻ vua đã bắt được làm tù binh(1). Tôi(2) có sai một người vào triều để xin một đặc ân; người đó được vào sổ những kẻ có phép vào trong cung điện cùng ở trước mặt vua trong một tháng, và đã có mặt trong ngày xử. Người đó mục kích các việc xảy ra từ đầu đến cuối. Khi về, người đó kể lại cho tôi; nhưng đây tôi không thể thuật hết các chi tiết, vì nó quá độc dữ, tôi chỉ kể ra những gì tôi nhớ được và có tính cách cảm động hơn của câu chuyện người đó nói lại, và nay ở Nam-hà ai cũng biết.

 

Chú thích:

(1) Ngày Gia Long hành hình Tây Sơn là ngày Giáp tuất, tháng 11, năm Nhâm Tuất, tức là ngày 30/11/1802

(2) Tôi: đây là giáo sĩ Bissachère, bấy giờ còn ở Nghệ An; khi giáo sĩ viết sách là năm 1807, và ở Luân Đôn.

(3) Vua trẻ Tây Sơn là Quang Toản.

(4) Em vua là Quang Thiểu.

(5) Thiếu phó: Trần Quang Diệu

(6) Bà Thiếu phó: Bùi Thị Xuân

(7) Khi vượt luỹ: nhắc lại chiến công oanh liệt của bà khi đánh Nguyễn Ánh ở luỹ Đồng Hới và gần thắng thì được tin Quang Toản đã chạy, nên phải lùi.
(8) Quan trấn thủ xứ Nghệ: Trần Quang Diệu
“Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn(3). Trước hết người ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ vua chết đã 10,12, năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần của vua đền bị quật lên. Người ta sắp các xương của Quang Trung, cha vua đó, và các xương của mẹ vua – là những kẻ chết đã 10 năm nay như tôi vừa nói – rồi người ta theo lệ bề ngoài chém cổ để làm sỉ nhục, và nhất là để các xương đó không còn sinh phúc cho con cháu, theo tục mê tín của người trong xứ. Rồi tất cả xương được dồn vào trong một cái giỏ lớn để binh sĩ đều tiểu tiện vào. Xong, người ta nghiền xương thành bột, bỏ vào một giỏ khác đặt trước mặt vua trẻ Tây Sơn để làm cho vua đó đau khổ.
“Bấy giờ người ta dọn cho vua một bữa tiệc khá long trọng, chiếu theo tục trong xứ đối với những kẻ sắp bị tử hình. Em vua(4), can đảm hơn vua, thấy vua ăn thì trách; và bởi vì mân người ta dọn đồ ăn bưng tới đó có những đặc điểm có ý tôn trọng chức vua, nên ông nói: “Nhà mình thiếu gì mâm, cần gì phải ăn mâm mướn”.
“Ăn xong, người ta nhét giẻ vào miệng vua và nhiều người khác để khỏi chửi mắng vua mới, đoạn trói chân tay vua vào bốn voi để cho voi xé. Một con voi đã kéo nát đùi và lòi gân vua ra, nhưng vua còn quay về cái giỏ chứa xương cha mẹ vua. Lý hình dùng một con dao, – dao này không có ở Âu châu, – để phanh các phần còn dính lại với nhau ra làm bốn phần, cọng với cái đùi đã xé ra nữa là năm. Người ta đem bêu các phần đó lên, ở đầu một cọc cao, tại năm chợ đông người hơn trong đô thành. Các cọc đó được canh giữ ngày đêm và người ta doạ phạt nặng những ai làm mất đi; nhưng phải để vậy cho thối ra hoặc cho quạ ăn.
“Còn về quan Thiếu phó(5), là kẻ được người trong gia đình cùng tất cả những kẻ quen thuộc yêu kính, quan đã làm một việc hiếu, trong ngày quan bị xử hay là ngày trước đó. Quan đã tâu được thấu đến vua rằng, mẹ quan già đã tám mươi tuổi, không thể nào làm hại cho xã tắc được nữa, nên xin vua tha chết cho bà, vì bà mang tội cũng là tại quan. Quan được như ý. Phần quan, chỉ bị chém thôi.”
“Quan có một cô gái mười lăm tuổi, đầy đủ các vẻ đẹp của một thiếu nữ. Khi cô thấy một con voi tiến về phía cô để rồi tung cô lên trời, cô thét một tiếng não ruột. Cô kêu mẹ, nói: “Mẹ ơi, cứu con với”. Mẹ cô, là vị nữ tướng, trả lời rằng: “Con đòi mẹ cứu làm sao, vì mẹ cũng không cứu được chính mình mẹ, và con nên chết đi với cha mẹ còn hơn là sống với bọn người kia…” Nhiều người muốn cứu cô, và họ quay mặt đi chỗ khác, khi voi, bị đánh đập, đã tung cô lên trời hai lần, rồi lấy ngà đỡ cô.
“Đến lượt bà Thiếu phó(6), bà hiên ngang tiến đến trước mặt voi để khiêu khích nó. Khi bà đến gần, người ta kêu lên bảo bà quì xuống cho voi dễ cuốn, nhưng bà không nghe, cứ đi thẳng đến voi. Người ta còn kể rằng dầu voi đã bị kích thích nhiều, cũng còn phải giục ép lắm, nó mới tung bà lên, dường như nó còn nhận được bà người chủ cũ của nó.
“Trước khi bị gia hình, người đàn bà can đảm đó đã bảo mang đến trong ngục cho bà nhiều tấm lụa. Bà lấy lụa vấn chặt ống chân cùng các phần thân thể bà cho đến trên bụng ở phía trong quần áo. Bà có ý làm thế để tránh bị trần truồng như các bà chịu tử hình cách đó thường bị.
“Người ta kể rằng, muốn được can đảm như bà, bọn lý hình lấy tim, gan, phổi, cùng cánh tay mập của bà mà ăn. Bà đã làm cho binh sĩ, cùng đến cả tướng lãnh của họ, khiếp sợ, khi bà vượt luỹ(7), nên người ta để các bộ phận bà cho bọn đó ăn. Ở Bắc Hà, thịt người được ăn sống với rượu (nhưng người ta chỉ ăn trong những dịp như thế này thôi).
“Người ta nói rằng chỉ có vị liệt nữ đó, cùng chồng bà, và em vua Tây sơn là không đổi sắc mặt khi giờ chết đến, còn các kẻ khác thì tái xanh đi và run sợ.
“Quan trấn thủ xứ Nghệ(8), một người vào hạng cao chức nhất, bị phanh thây ra nghìn miếng, vì người ta ghét ông hơn cả. Chính ông đã cho lùng bắt tôi hơn bảy năm và đã thề giết cho được tôi mới thôi. Ông muốn bắt tôi, vì biết tôi ở trong tỉnh ông. Ông cho đốt cụt ngón tay trỏ của một tín đồ người Nam Hà và của cô con gái người đó, để bắt họ thú là có tôi ở trong làng, mà điều đó thật có. Việc nầy xảy ra mấy tháng trước khi Bắc Hà bị vua chiếm”.

Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ


spacer

Uẩn khúc mộ 'Gia Định tam hùng'

Ngôi mộ và miếu thờ vô chủ tọa lạc tại ven đường Phạm Ngũ Lão, thuộc KP.3, tổ 16, P.Hiệp Thành, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương được cho là nơi an táng của một trong “Gia Định tam hùng”.

Chính diện mộ Đỗ Hiệp trấn và phu nhân sau khi phục dựng - Ảnh: L.C.T
spacer

Lăng mộ 'ông nội vua nước Việt'

Khu di tích Gò Lăng (ở thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, H.Tây Sơn, Bình Định) được các nhà nghiên cứu và người dân địa phương nghi ngờ là khu lăng mộ của nhà Tây Sơn.

Ông Mai Văn Châu bên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn đang bị hoang phế

spacer

Thực hư con sông làm đứt mạch đế vương và những lý giải dưới góc nhìn khoa học - Kỳ 3

Các tài liệu chép về phong thủy ngôi huyệt đế vương nhà Trần có đề cập tới một con sông bí ẩn. Tương truyền rằng, vì đào con sông này mà long mạch nơi đây bị phạm, dẫn đến sự sụp đổ của nhà Trần. Hiện nay, có ý kiến tranh cãi rằng, con sông này là do Hồ Quý Ly thực hiện để phá long mạch. Một ý kiến nữa lại cho rằng, việc này là do thầy phong thủy trả thù. Vậy thực hư câu chuyện này ra sao?

Cổng lớn đi vào khu lăng mộ các vua Trần tại Thái Bình ngày nay.

spacer

Bí ẩn ngọn núi 'lạ' có 11 ngôi đền 'giữ kho báu'

Hàng chục năm qua người dân xóm Đông Sơn (huyện Đô Lương, Nghệ An) vẫn thường rỉ tai nhau về những câu chuyện bí ẩn xung quanh 11 ngôi đền “lạ” ở trên núi Đền.
Cho đến bây giờ người dân nơi đây vẫn chưa lý giải được những ngôi đền đó thờ vị thần nào và vì sao trên một ngọn núi nhỏ lại có tới 11 ngôi đền thiêng?!

Những ngôi đền giữ của?

Trong một lần ghé thăm những ngôi đền này, chúng tôi đã được nghe người dân kể lại rất nhiều giai thoại từng xảy ra tại vùng đất này. Họ kể rằng, người trồng cây lên địa phận đền, người trộm cành cây ở đền,... cũng bị “ngài” trừng phạt. Người phàm tục nếu “phạm” đến sự linh thiêng của đền phải dâng hương cầu khấn “ngài” mới chịu tha cho?

Những câu chuyện nhuốm màu sắc tâm linh quanh 11 ngôi đền khiến cho người dân nơi đây ai cũng phải sùng bái. Có nhiều gia đình còn xin đưa về trong khu vườn của mình để thờ cúng.
Được biết, núi Đền nằm trên địa bàn xóm Đông Sơn, xã Giang Sơn Đông có địa hình núi thoai thoải, diện tích khoảng 4 hecta. Theo truyền thuyết kể lại khu vực núi Đền được người Tàu chọn làm địa điểm chôn cất kho báu.

Hai trong số những ngôi đền trên núi  Trước kia do địa hình hoang vu, cây cối rậm rạp, ít người lui tới nên việc xuất hiện nhiều ngôi đền “lạ” khiến cho người dân rất ngạc nhiên. Bà Thái Thị Phấn (86 tuổi) cho biết: “Không biết ngôi đền này có từ bao giờ nhưng từ khi sinh ra, tôi đã thấy nó ở đó rồi. Nghe ông bà kể lại người Tàu xây dựng nó để giữ kho báu.
Trong 11 ngôi đền, ngôi đền Cả có diện tích và cấu trúc lớn nhất. Nó được thiết kế khá đặc biệt, có khắc những hoa văn khá tinh tế. Các ngôi đền còn lại đều có kết cấu y hệt nhau, cùng có hình dạng ô vuông chỉ có một gian, cao khoảng 2m, được làm bằng gỗ lim và gỗ mít, phía trên lợp ngói.
Mỗi ngôi đền đều chia làm hai tầng, tương tự như kiểu nhà sàn. Phần dưới chỉ có bốn cột dựng để chống đỡ. Phía trên được đóng ván kín 3 phía, phía trước cửa mở, bên trong đặt bài vị, bát hương, trong các đền nhỏ còn đặt hai thanh đao”. 

bí ẩn ngôi đền giữ kho báo
Hai trong số những ngôi đền trên núi 
Trước kia do địa hình hoang vu, cây cối rậm rạp, ít người lui tới nên việc xuất hiện nhiều ngôi đền “lạ” khiến cho người dân rất ngạc nhiên. Bà Thái Thị Phấn (86 tuổi) cho biết: “Không biết ngôi đền này có từ bao giờ nhưng từ khi sinh ra, tôi đã thấy nó ở đó rồi. Nghe ông bà kể lại người Tàu xây dựng nó để giữ kho báu. 

Trong 11 ngôi đền, ngôi đền Cả có diện tích và cấu trúc lớn nhất. Nó được thiết kế khá đặc biệt, có khắc những hoa văn khá tinh tế. Các ngôi đền còn lại đều có kết cấu y hệt nhau, cùng có hình dạng ô vuông chỉ có một gian, cao khoảng 2m, được làm bằng gỗ lim và gỗ mít, phía trên lợp ngói. 

Mỗi ngôi đền đều chia làm hai tầng, tương tự như kiểu nhà sàn. Phần dưới chỉ có bốn cột dựng để chống đỡ. Phía trên được đóng ván kín 3 phía, phía trước cửa mở, bên trong đặt bài vị, bát hương, trong các đền nhỏ còn đặt hai thanh đao”. 

Theo người xưa phỏng đoán, những ngôi đền do người thời xưa xây dựng lên để giữ kho báu. Trong các đền đều có một bức tượng hình con chó rất to được đúc bằng gỗ, rỗng bụng. Họ cho rằng chó là biểu tượng của “thần giữ của” hay còn gọi là “thần khuyển”. Khi đổ nước vào, nước sẽ phun ra từ miệng của con chó và đổ xuống đất trúng chỗ nào thì đó là điểm chôn vàng bạc châu báu(?). 

Trước kia, có một nhóm người đã đến đây làm lễ cúng bái mấy ngày liền. Sợ họ đào kho báu vàng bạc đi, người dân đã xua đuổi nhóm người này. Vì không lấy được của cải, họ đã tàn phá những ngôi đền. Do không có điều kiện nên người dân không tôn tạo nó nữa. Có một thời gian những ngôi đền này đã bị lãng quên vì không có ai sinh sống ở đó. 

Truyền thuyết bí ẩn và linh thiêng 

Khi người dân bắt đầu tràn vào khu vực núi Đền khai hoang làm nơi sinh sống và sản xuất, họ mới bắt đầu để ý những ngôi đền này. Điều kỳ lạ, những hộ dân đó chỉ sống được một vài năm thì phải di dời đi chỗ khác vì “ngài” không cho ở. Nghĩ rằng các ngôi đền này linh thiêng, những người đến sau kinh nghiệm hơn trước khi ở đều làm lễ thắp hương cúng vái thì làm ăn rất phát đạt. 

“Không biết đó là sự thật hay là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Những người nào “sùng” và làm lễ dâng hương thì “ngài” cho ở lại. Còn những hộ gia đình nào không làm lễ cầu khấn thì hàng đêm “ngài” báo mộng và trừng phạt, buộc phải đi khỏi làng”, bà Phấn cho biết thêm. 

Kể từ đó, người dân nơi đây ngày càng tin vào sự linh thiêng của núi Đền. Có người thấy được sự linh thiêng này đã xin đưa đền về trong nhà để “chăm sóc” và thờ phụng mong nhận được sự bình yên. Theo người dân kể lại, bà Đính - người dân xóm Đông Sơn cách đây mấy năm lên núi cải tạo đất để trồng cây củ đậu. 

Trong quá trình cuốc đất, bà phát hiện nhiều lớp gạch ngói mới biết đó là nền cũ của một trong những ngôi đền trước đây. Nghĩ người ta đã di dời đền đến chỗ khác, không ảnh hưởng gì nên bà vẫn tiếp tục bón phân và gieo hạt xuống. Tối về bà bỗng dưng đau bụng, đau đầu uống thuốc gì cũng không khỏi. Hai ngày sau, bà Đính được “ngài” báo mộng rằng bà đã mạo phạm đến đền thiêng. Người nhà của bà phải lên vườn dọn lớp phân đã bón và làm lễ dâng hương, bà mới khỏi bệnh. 

Không những thế, cách đây khoảng mười năm, có một thanh niên ở làng bên thấy cây sanh ở cạnh đền đẹp nên xin bà Đính về trồng nhưng không được bà đồng ý. Tối hôm đó, anh ta đã đến nhổ trộm đưa về nhà mình trồng. Sau đó, anh ta tự nhiên bị những biểu hiện đau bụng, đau đầu giống như bà Đính. Nghe người ta mách nước, thanh niên này đã mang nhành cây đến trả chỗ cũ và thắp hương cầu vái mới được yên ổn. 

“Một trong 11 ngôi đền đó được cha tôi đưa về nhà để thờ cúng. Ngôi đền đó rất linh thiêng. Có hôm do thời tiết quá nắng nóng nên cha tôi đã trải chiếu trước đền để nằm. Nhưng nằm được một tý, cha phải chạy đi. Khi hỏi vì sao cha không nằm ở đó nữa, cha tôi nói, vừa chợp mắt thì “ngài” đã hiện về đuổi đi(?). Không những thế, trước đây ông Hồng Định, người trong làng cũng bị ốm “thập tử nhất sinh”, đi khám khắp nơi không ra bệnh gì. Một hôm ông làm lễ thắp hương xin “ngài”, hôm sau lập tức khỏi ốm ngay và khỏe mạnh cho đến bây giờ”, bà Phấn kể về sự linh thiêng của ngôi đền. 

Vào tháng 4/2014, người dân trong vùng đã quyên góp được 40 triệu đồng để xây lại ngôi đền Cả. Nhiều người đi làm ăn xa xứ tin rằng nhờ có “ngài” ở ngôi đền phù hộ nên cuộc sống của họ khấm khá hơn. Và thật kỳ lạ, từ khi tu tạo lại đền, người dân trong làng không còn gặp điều xui xẻo nữa”, ông Hồ Xuân Lam (54 tuổi) - người trực tiếp xây dựng, tu tạo ngôi đền cho biết. 

Mặc dù, người dân tôn sùng và trùng tu lại nhưng trên thực tế họ không biết chính xác những ngôi đền này thờ cúng ai. Có người bảo rằng, đền thờ “thần khuyển” nhưng có người lại cho rằng thờ các thiên thần cung nữ. 

Là Trưởng ban thờ cúng 11 ngôi đền nhiều năm nay, ông Lê Hồng Châu cho biết: “Lúc trước, nghe người xưa phỏng đoán có thể thờ “thần khuyển” để giữ của. Nhưng gần đây, nhiều người dân trong làng lại cho rằng những ngôi đền này thờ Bạch Y công chúa. Vì vậy, trên thực tế chúng tôi cũng không biết chính xác ngôi đền này thờ phụng ai nhưng rất linh thiêng”. 

Truyền thuyết ghi lại rằng Bạch Y công chúa cũng chính là Mẫu Thượng ngàn – là Thiên thần đã được nhân dân thần hóa, lịch sử hóa, luôn trông nom, thuần hóa muôn loài chốn rừng xanh, luôn giúp đỡ, phù trợ các anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ biên cương bờ cõi. Họ thờ thần Bạch Y để cầu được phù trợ, được bình an, tránh được rủi ro, tai nạn và được ban phúc, ban lộc. Vì vậy, ở nhiều nơi, người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Ông Châu cho rằng, có thể ngày xưa người Tàu xây dựng để thờ bà. 
Ông Nguyễn Trọng Tuấn - Chủ tịch xã Giang Sơn Đông cho biết: “Những ngôi đền này đã tồn tại hàng trăm năm nay. Trước đây, không có ai thờ cúng gì cả nhưng thời gian gần đây người dân đến thắp hương cầu an ngày càng nhiều hơn. Mới đây, dân trong vùng có góp tiền xây dựng lại ngôi đền Cả. Hiện những ngôi đền này chưa đủ điều kiện để lập hồ sơ công nhận di sản văn hóa. Còn những câu chuyện mang tính tâm linh người dân bị “ngài” trừng phạt thì không ai có thể khẳng định được. Đó cũng có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi”.
Nguồn: vtc. vn
spacer

Nhận xét về “An Nam đại quốc họa đồ”

Tên bản đồ này được ghi trân trọng bằng chữ Hán 安南大國畫圖 và bằng chữ quốc ngữ:An Nam đại quốc họa đồ và dịch ra tiếng LaTinh là Tabula Geographica imperii Anamitici.Nguyên bản họa đồ khá lớn, ngang 40, dọc 80cm, ấn hành theo cuốnNam Việt dương hiệp tự vị ( Dictionarium Anamitico – Latinum) mà tác giả là Giám mục Taberd, xuất bản tại Serampore (Ấn Độ) năm 1838.      Jean – Louis Tabrd (tên Việt là Từ) sinh tại Saint – Etienne. Quận Loire (Pháp) ngày 18/6/1794, gia nhập Hội Truyền giáo nước ngoài, trụ sở tai Paris (MEP), thụ phong linh mục ngày 27/7/1878. Ngày 7/11/1820, ông rời Pháp đến Đàng Trong – Việt Nam truyền giáo.
Tới nơi, Taberd nổ lực học tiếng Việt và viết các thứ chữ Hán, Nôm, quốc ngữ Latinh mà tư liệu học tập tốt nhất có lẽ là Tự vị Annam – Latinh (Dictionarium – Anamitico – Latinum) của Bá Đa Lộc (PieremPigneau de Beshaine) hoàn thành từ nă 1773. Taberd chủ yếu lo việc đào tạo các giáo sĩ bản quốc.

          Dưới thời Gia Long (1802 – 1819), việc truyền giáo không dễ dàng như dưới thời Nguyễn Ánh (1778 – 1802) vốn thân thiện với Giám mục Bá Đa Lộc (sinh năm 1771 – 1799), nhưng chưa bị cấm cách. Dưới thời Minh Mạng (1820 – 1840), đạo và tập trung các giáo sĩ ngoại quốc và Huế. Lê Văn Duyệt có thiện cảm với Công giáo nên cho hai thừa sai Resgesreau, Morronne được ở lại Nam Kỳ, còn hai thừa sai Gegelin, Odoric thì gởi ra Huế. Lúc ấy thừa sai Taberd đang ở tại chủng viện Phường Rượu (An Do, Quảng Trị) cũng tuân lệnh tới kinh. Đại Nam thực lục ghi: “Năm Đinh Hợi (1827), tháng 8, bổ người Tây dương là Phú Hoài Nhân (Taberd) làm Chánh thất phẩm thông dịch ở Ty Hành nhân; Tây Hoài Hoa (Gagelin), Tây Hoài Hóa (Odoric) làm Tùng thất phẩm thông dịch Ty Hành nhân. Mỗi tháng cấp cho mỗi người 20 quan tiền, 4 phương gạo lương, 1 phương gạo trắng. Sai phủ Thừa Thiên trông coi, cấm không cho ra ngoài dạy học trò để truyền giáo”. (1) Taberd bị cấm truyền giáo, nhưng có dịp hoàn thiện ngôn ngữ và bổ sung trình độ Việt Nam học. Những kiến thức chắc chắn về chính quyền hay sử địa nhận được từ triều đình trung ương sẽ được trình bày trong từ điển hay bản đồ sau này.
spacer

Con đê và vết hằn lên tính cách người Việt

Những di chỉ khảo cổ đã dẫn dắt các nhà khảo cổ học và dân tộc học từ lâu đến kết luận rằng có một sự diễn tiến liên tục từ văn hoá Phùng Nguyên, qua các văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun đến văn hoá Đông Sơn, rằng chủ nhân văn hoá Đông Sơn chính là tổ tiên của người Việt ngày nay, và rằng “ Những văn hoá Tiền Đông Sơn cùng với văn hoá Đông Sơn hợp thành một hệ thống văn hoá... có thể gọi là hệ thống văn hoá sông Hồng. Trong bài viết này, dựa trên những thành tựu của nghiên cứu địa lý - địa chất vùng đồng bằng sông Hồng, những thành tựu và phát hiện khảo cổ học, những công trình nghiên cứu văn hoá tộc người đã được công bố, chúng tôi thử đưa ra một sự hình dung về một quá trình, tạm gọi là quá trình Đông tiến, của tổ tiên người Việt, chủ yếu dọc theo dòng chảy sông Hồng, từng bước từng bước trở thành chủ nhân của vùng châu thổ Bắc Bộ - cũng là vùng lãnh thổ giữ vai trò hạt nhân trong quá trình hình thành quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, đó lại cũng vẫn là một nhiệm vụ quá lớn, quá nghiêm túc, do vậy câu chuyện chủ yếu sẽ chỉ diễn ra xung quanh việc người Việt từ xưa tới nay đã trở nên thế nào “dọc theo những triền đê”.

spacer

Lưu ý những điều cấm kỵ trong sắp đặt bàn thờ P2

Người xưa quan niệm có rất nhiều cấm kị tại vị trí đặt ban thờ: Không được dựa vào trụ nhà, không được có cửa sổ bên cạnh (do không thể tụ được khí). Ban thờ cũng không được áp lưng vào nhà bếp vì có thể khiến chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống.

Phía sau ban thờ đặc biệt không được có nhà vệ sinh, nhà tắm do có âm khí và xú khí nặng, theo phong thủy dễ khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau bàn thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ở lưng.
Bàn thờ không được đối diện với lò, bếp, nhà vệ sinh, kể cả hướng lệch sang bên cũng không tốt. Nếu không còn vị trí nào khác để đặt ban thờ thì nên lấy bình phong che lại. Phòng thờ không nên đặt ở nền đất vốn trước đây là nhà bếp, nhà vệ sinh do chất đất không tốt. Trên ban thờ kị đặt các vật linh tinh, dao kéo, thuốc men, không được dùng tủ thờ làm nơi cất giữ đồ đạc hoặc bể cá, vô tuyến, loa đài.
Vật liệu làm bàn thờ nên sử dụng gỗ long não, đàn hương và nên điêu khắc thủ công là tốt nhất do các loại gỗ này tránh mối mọt, có thể sử dụng từ đời này sang đời khác.
Trên bàn thờ không nên đặt chậu cây cảnh mà chủ yếu dùng hoa tươi để thờ phụng, không nên dùng hoa nhựa. Chủ nhà thường xuyên vệ sinh khu vực xung quanh, nên thắp hương vào sáng và tối. Người xưa quan niệm rằng nếu khói hương bay thẳng lên là tốt, nếu cuốn thành vòng tròn hoặc tản mát là có “ngoại linh đang tranh cướp”. Nếu bát hương bàn thờ thần tự nhiên bốc cháy là may mắn, nếu bát hương thờ tổ tiên cháy là điềm báo hung.
Nếu ban thờ của nhà có thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc dùng tấm vách ngăn sơn đỏ để tránh tranh chấp nhau.
Ban thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Sở dĩ có quan niệm này vì người xưa cho rằng ban thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường bàn thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu ban thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán.
Ban thờ không được xung với đường đi: Ban thờ bị đường đi đâm thẳng vào dễ gây bất an tổn hại đến cung tài lộc, nhân đinh của gia đình, dễ gây tai nạn ngoài ý muốn hoặc bệnh tật tấn công.
Ban thờ ngược với hướng nhà dễ khiến người trong nhà bất hòa, dễ gặp bất trắc bệnh tật. Nếu đặt ở vị trí quay sang trái hoặc sang phải nhà thì chủ nhân dễ có tâm sự phiền muộn khó nói ra. Nếu ban thờ đối diện với nhà vệ sinh thì người trong nhà gặp nhiều bệnh tật đau đớn.
Nếu ban thờ đối diện với nhà bếp dễ khiến nguời trong nhà hay tranh cãi những việc nhỏ, tính tình nóng nảy. Nếu phía trên ban thờ có xà nhà có thể khiến chủ nhân dễ bị đau đầu, cuộc sống vất vả. Nếu đặt đối diện với cầu thang, chủ nhân dễ bị động dao kéo, tai nạn đổ máu. Nếu đặt dưới cầu thang thì người trong nhà khó có cơ hội phát triển. Nếu đặt trên nền đất lồi lõm không bằng phẳng có thể khiến chủ nhân gặp khó khăn trong mọi việc. Nếu phía trên, dưới, trái, phải ban thờ có cửa sổ thì chủ nhân dễ bị tán tài.
Ngày Tết là thời điểm quan trọng chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, mọi người đều dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đón Tết và cũng không được phép quên trang hoàng nơi thờ cúng. Công việc này thông thường bắt đầu từ ngày 23/12 âm lịch, thời điểm tiễn táo quân lên thiên đình bẩm báo công việc ở hạ giới trong năm theo phong tục Việt Nam...
Nguồn: theo PLVN
spacer

Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận như thế nào? P1

Trong quan niệm của người Việt, bàn thờ trong mỗi gia đình – nơi thờ cúng gia tiên, tưởng nhớ tổ tiên là nơi trang nghiêm, tôn kính nhất. Thế nhưng phong tục tốt đẹp từ ngàn đời này có những nguyên tắc sắp xếp, trang hoàng riêng mà không phải ai cũng biết. Và phong thủy nơi thờ cúng có ảnh hưởng nhất định đến những con người đang sống trong gia đình.


Phong thủy nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận?
Thần Phật được thờ trong nhà giống như người khách quý nên người ta thường đặt ban thờ thần Phật ở sảnh giữa nhà, áp lưng vào tường vững chắc hoặc để chung với bàn thờ gia tiên. 
Nhưng cũng không phải tùy tiện thích đặt thế nào thì đặt vì vậy, người xưa cho rằng chỉ cần nhìn vào nơi thờ cúng của gia đình cũng có thể biết gia chủ có tâm hay không. Cái tâm ở đây không được đo bằng mâm cao cỗ đầy, vàng mã bao nhiêu mà là ở vị trí đặt bàn thờ, cách sắp xếp bàn thờ ra sao cho phù hợp, trang nghiêm và sạch sẽ.
Quan niệm phong thủy thì cho rằng bàn thờ là nơi linh khí quy tụ, là chỗ để người trên dương thế liên hệ với người đã khuất, người chết thì thành thần, thần lại là trung gian giữa trời với người. Từ đó có thể thấy, khí trường của ban thờ ảnh hưởng rất lớn đến người trong nhà. Ban thờ sắp đặt đúng cách không chỉ khiến người đã khuất an định mà ở lại coi sóc phù hộ gia đình, nên ban thờ cũng có những quy tắc nhất định.
Sắp đặt ban thờ theo phong thủy
Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng. 
Bàn thờ thần Phật thì nên đặt ở hướng chính hoặc quay bên trái, bên phải. Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc.
Số lượng thần Phật phải là số dương, do thần Phật thuộc dương vì vậy phải dùng số lẻ, không nên thờ cùng lúc quá nhiều thần Phật, hoặc thờ cùng lúc hai thần xung khắc nhau có thể gây loạn linh khí khiến người trong nhà tinh thần bất an, dễ gặp tai họa. Nếu có đặt tượng thần Phật mà tượng ấy lại bị nứt thì nên nhanh chóng thay mới do tà khí có thể xâm nhập vào.
Ban thờ có thờ chung thần Phật và bài vị tổ tiên thì thần Phật đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Thông thường người ta đặt nơi thờ cúng tổ tiên trước rồi mới đến thần Phật.
Tổ tiên được coi là chủ, thần Phật được coi là khách quý, nếu mời thần Phật trước rồi mới mời tổ tiên người xưa cho rằng như vậy khiến tổ tiên nhà mình không dám vào cửa. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần Phật. Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát
Bát hương thờ tổ tiên nên có tay cầm, bát hương thờ thần không nên có tay cầm. Vật liệu bát hương tốt nhất là dùng bằng sứ, sau đó đến đồng, không nên dùng đá hoa cương.
Bóng đèn phía trước không nên xung với ban thờ, không nên dùng đèn chiếu. Ban thờ cũng không đặt ở vị trí dưới xà nhà, nếu không có vị trí tốt hơn thì phải làm trần, ngoài ra bên trên không được có máy móc như máy điều hòa, máy hút mùi, loa đài.
Số lượng thờ thần Phật nhiều nhất là 3, không nên quá nhiều dễ gây bất an. Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ.
Bát hương thờ thần Phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên, khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà. Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số.
spacer

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa của người Việt

Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là người Việt Nam thì " mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều thờ ông bà”.

Thờ cúng tổ tiên, nét văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt(ảnh minh họa)
spacer
do