BÀI VIẾT CỦA TRẦN QUANG ĐÔNG
+++LẦN NGƯỢC VỀ QUÁ KHỨ TÍT TẮP MÙ KHƠI, ĐỂ TÌM VỊ TỔ TÔNG TRẦN TỘC...
---------
Chính Sử, Ngoại Sử, Tộc Phả, viết về huyết hệ Trần Tộc, thường chỉ nhắc đến vị Tổ cao nhất là TRẦN TỰ KINH...Vậy sinh thành ra Trần Tự Kinh là ai ?... Hẳn nhiên phải là bậc phụ-mẫu, lên đến bậc ông-bà, bậc cụ-kỵ, bậc Tằng-Tổ...Ôi chao ! Thật là mờ mịt.......
Cho mãi đến năm kia, may mắn thế nào, tôi gặp ngay được bộ trường thiên tiểu thuyết dã sử Trần Triều của Yên Trần Cư Sĩ, tức BS Trần Đại Sĩ hiện sống ở bên Pháp. Pho truyện có tựa đề "ĐÔNG A DỰNG CỜ BÌNH MÔNG"...
Rồi năm ngoái, đọc thêm được một vài đoạn trong quyển "Tộc Phả Trần Tộc" do Trần Ích Tắc thủ bút.
Từ hai nguồn văn sử liệu này, tôi lần ra thêm được một số thuộc hàng liệt Tổ liệt Tông vai trên Tổ Trần Tự Kinh, cho đến vị Tổ Trần Tộc xa xưa nhất....
Với hoài vọng :
*Con người phải có Tổ Tông
*Như cây có cội như sông có nguồn
Nay, tôi viết ra bài viết này với hoài bão nêu lên một vấn đề đã bao lâu nay bị khuất lấp chưa được lịch sử soi sáng, nhằm mở rộng thêm chiều dư luận....
*******
Trở ngược về một quá khứ xa xưa tít tắp vào thời Chiến Quốc, theo bậc học giả tiền bối Đào Duy Anh nghiên cứu cho biết lúc này đã có 500 tộc người Bách Việt sống rải rác ở Hoa Nam Trung Hoa, Miến Điện, Bắc VN, và Lào...
Mãi đến năm 227 trước Công Nguyên, một bộ tộc Việt trong số 500 tộc Việt này, sinh sống ở đất Mân, gọi là Mân Việt (Phúc Kiến Trung Hoa), xuất hiện một người HỌ TRẦN rất nổi danh, lên là Phương Chính Hầu TRẦN TỰ MINH. Như vậy :
>>>>>>>>>>TỔ HỌ TRẦN XUẤT HIỆN TỪ ĐÂY (1)<<<<<<<<<<<TRẦN TỰ MINH<<<<<<<<<<<<<<
Ngài họ TRÂN, tên đệm TỰ MINH. Phương Chính Hầu là một chức quan được phong dưới thời Tần Thủy Hoàng, song vì Ông vua Tần này nuôi Bá Mộng diệt lân bang, mở rộng cương thổ, nên Ngài bất bình, bỏ về với Triệu Đà, nào ngờ Triệu Đà cũng cùng nuôi Bá Mộng của người Hán, Ngài lại bỏ Triệu Đà vì bất mãn, và theo dòng người Bách Việt di cư xuống phía Nam....
Trần Tự Minh được vua An Dương Vương thu dụng, trở thành vị tướng tài ba, cùng với Cao Lỗ chống lại Triệu Đà.
Khi Cổ Loa thất thủ, đất nước mất vào tay cha con Triệu Đà, Trần Tự Minh lặng lẽ về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc.
Như vậy, từ năm 227 trước Công Lịch, vị TỔ ĐẦU HỌ TRẦN LÀ TRẦN TỰ MINH xuất hiện, cho đến năm 582 Công Lịch, là một giai đoạn trải dài 809 năm. Trong giai đoạn này, hậu duệ của TRẦN TỰ MINH phát triển thành nhiều nhánh. Riêng ngành đích trưởng, mãi đến năm 582, mới lại có một người nổi lên thành một nhân tài kiệt xuất ở xứ Giao Châu, đó là TRẦN TỰ VIỄN (582-637).......
Cũng cần nói thêm rằng, lâu nay ta vẫn cứ đinh ninh Đình Bảng là quê gốc cửa vương triều nhà Lý, mà ít ai có thể ngờ được rằng đất Kinh Bắc cũng là nơi trú ngụ của các vị Thủy Tổ Triều Trần, mà di tích còn tồn tại đến nay là ngôi đền thờ Thái Sư Trần Thủ Độ tại đây. Nguyên do là :
Hồi ấy, ở Từ Sơn, đất Kinh Bắc, có sư Pháp Hiền là đệ tử của Thiền Sư Tì-ni-đa-lưu-chi (Ấn Độ) đang dụng công truyền bá đạo Phật phái Thiền Tông, thu nạp rất nhiều môn đệ.
Lịch sử nhà Phật chép rằng sau khi Ti-ni-đa-lưu-chi viện tịch, Pháp Hiền vào Từ Sơn tu tập đạo hạnh.Thân hình ngài như cây khô, mọi vật ngã đều quên, các giống chim và thú rừng đến quấn quýt thân mật bên ngài. Người người lúc này mộ tiếng theo học rất đông không kể xiết. Ngài bèn dựng chùa dậy học, cư tăng lúc nào cũng trên 300 người, Thiền Tông phương Nam bấy giờ là thịnh nhất.
Một chú bé mồ côi kiếm củi gần chùa tên là
>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ VIỄN (582-637) (2)<<<<<<<<<<<<<
Chú bé TRẦN TỰ VIỄN, lần nào cũng như lần nấy, cứ đến giờ giảng về giáo lý Tam Giáo, và vào giờ luyện tập võ nghệ, đều đứng bên ngoài nghe rất say mê, đồng thời múa máy tay chân, bắt chước theo từng thế võ.
Sư Pháp Hiền động tâm thu nạp, yêu mến, dậy thông tam giáo Nho-Phật-Lão và TRUYỀN THỤ CÙNG LÚC CẢ VÕ CÔNG.
Sau nhiều năm tu tập, TỰ VIỄN trở thành môn đệ xuất sắc nhất của phái Thiền Tông, đồng thời cũng nức tiếng VÕ CÔNG CAO CƯỜNG, VỚI 2 TUYỆT KỸ HỔ QUYỀN VÀ ƯNG XÀ QUYỀN.
TRÌNH ĐỘ VÕ HỌC CỦA TRẦN TỰ VIỄN CAO THÂM ĐẾN MỨC ÍT GẶP NGƯỜI NGANG TAY.....Ông đem VÕ CÔNG của mình cùng với môn đồ, phật tử, giúp dân chống lại sự đô hộ của nhà Đường. Dân khắp vùng đều sùng kính, tôn ông là Phật Sống.
>>>>>>CÓ THỂ ĐÂY CŨNG CHÍNH LÀ LÝ DO ĐỂ GIẢI THÍCH VÌ SAO DÒNG HỌ TRẦN SAU NÀY
**** RẤT THƯỢNG VÕ <<<<<<
**** RẤT SÙNG ĐẠO PHẬT
để rồi đến đời Trần Nhân Tông sau này, được khai sáng hẳn thành một THIỀN PHÁI TRÚC LÂM trên Yên Tử.
Họ Trần dòng thống tôn có chữ đệm là TỰ,cư ngụ ở Kinh Bắc, tiếp truyền cho đến đời
>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ AN (1010-1077) (3)>>>>>>>>>
mỗi ngày thêm hiển hách trong giới VÕ LÂM của Đại Việt.
Để phân biệt với các phái võ khác, TỰ AN đặt tên cho võ phái của mình là ĐÔNG A (chữ nho "ĐÔNG và A ghép lại thành chữ TRẦN).
>>>>>>>HAI CHỮ ĐÔNG A XUẤT HIỆN TỪ ĐÂY VÀ CỘNG VỚI HÀO KHÍ 3 LẦN KHÁNG NGUYÊN ĐỂ TRỞ THÀNH ======HÀO KHÍ ĐÔNG A====== <<<<<<
Thời ấy ở Đại Việt ta có 3 phái võ danh tiếng lẫy lừng cả nước, đó là
--1/ Phái Lĩnh Nam, xuất phát từ Mê Linh, sau lưu truyền quanh vùng Tam Đảo, Ba Vì .
--2/ Phái Hoa Sơn xuất phát từ Kinh Bắc rồi lan truyền ra đến Thăng Long và các vùng phụ cận .
--3/ Phái ĐÔNG A của Trần Tự An.
Ba phái võ trên đều tràn đầy nhiệt huyết và lòng tự tôn dân tộc, song le, lại có sự khác nhau về hệ tư tưởng, và mỗi phái đều nuôi tham vọng phái mình phải ở vị trí thống lĩnh võ lâm toàn quốc, nên sự mâu thuẫn càng ngày càng gay gắt.
Phái Lĩnh Nam sùng bái đạo Lão ; 2 phái Hoa Sơn và Đông A cùng xuất phát từ Kinh Bắc, cùng theo đạo Phật hệ phái Thiền Tông, nhưng lại khác nhau về thân phận và võ thuật. Phái Hoa Sơn thuộc Hoàng Tộc Nhà Lý, nên lấn át phái Lĩnh Nam và Đông A về nhiều phương diện.
Thế nhưng Đông A với sự dìu dắt của TRẦN TỰ AN thời ấy, xuất sinh ra 3 người con, gồm 2 gái một trai, võ công lừng lẫy đương thời,đến độ trong giới võ lâm gọi là "Côi Sơn Tam Anh". Đó là
*TRẦN THÔNG MAI,
*TRẦN TỰ MAI
*TRẦN THANH MAI.
Trần Thông Mai xuất gia cửa Phật, Trần Thanh Mai lấy con trai thứ 3 của Lý Thái Tổ là Hoàng Tử Lý Long Bồ....Như vậy :
>>>>>TRẦN TỰ MAI LÀ TỔ TIẾP TRUYỀN (4)
Trần Tự Mai, sau khi giúp nhà Tống đánh bại Tây Hạ, được vua gả công chúa Huệ Nhu và phong tước Kinh Nam Vương, được cai quản địa hạt từ Trường Sa tới sát biên giới Đại Việt ....
Trần Tự Mai vẫn tiếp tục sống ở đất Kinh Bắc. Tại đây, tiếp truyền dòng dõi thêm 2 đời nữa :
Trần Tư Mai sinh ra :
>>>>>>>>>>>>TRẦN VỊ HOÀNG (5)<<<<<<<<
Trần Vị Hoàng sinh ra :
>>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ QUANG (6)<<<<<<<<<
Trần Tự Quang sinh ra :
>>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ KINH (7)<<<<<<<<<<<
Trần Tự Kinh sinh ra :
>>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ HẤP (8) con trưởng <<<<
>>>>>>>>>>>>TRẦN TỰ DUY (8a) con thứ<<<<<<
Trần Tự Hấp sinh ra :
>>>>>>>>>>>>>TRẦN LÝ (9)<<<<<<<<<<
Trần Lý sinh ra :
>>>>>>>>>>>>>TRẦN THỪA (10)-(Thái Tổ Trần Triều)
****Ngành con thứ(8a)****
----TRẦN TỰ DUY SINH RA TRẦN THỦ HUY
----TRẦN THỦ HUY SINH RA ===TRẦN THỦ ĐỘ======
Trước khi qua đời, Tự An di ngôn lại cho con trai TỰ MAI nên tìm cách chuyển võ đường Đông A đi một nơi khác nhằm tránh sự sung đột với phái Hoa Sơn, có hại chung cho sự nghiệp võ lâm của Đại Việt.
Lúc đầu Tự Mai chuyển đến ở ĐÔNG TRIỀU-CHÍ LINH. Sau đó đến đời chắt (khoảng TK XI) là TRẦN TỰ KINH (Trần Kinh) lập trại ở Tức Mạc cùng với 2 con trai rất giỏi võ là TRẦN TỰ HẤP và TRẦN TỰ DUY. Về cuối đời, TRẦN TỰ KINH nghe theo lời con trưởng là TRẦN TỰ HẤP chuyển cư hẳn về ấp Thái Đường và ở luôn nơi này tạo nhiều ân đức với dân trong vùng. Đến đời Tự Hấp tiếp tục làm chưởng môn phái Đông A. Thanh thế họ Trần lúc này đã rất lớn.
Huyền tích trong tộc phả giải thích lý do họ Trần chuyển nơi ở từ Tức Mạc về Thái Đường, khá ly kỳ :--Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà, triều đình nhà Lý bắt đầu rối ren vì phe phái.
Một hôm, Tự Kinh cùng 2 con là Tự Hấp và Tự Duy với mấy chục đệ tử rong thuyền vãn cảnh, Tự Hấp bỗng phát hiện thấy một xác người bị đóng bè trôi sông, bèn sai thủ hạ vớt lên. Trong số môn đồ phái Đông A, có Phạm Tử Tuệ rất giỏi về y thuật. Tử Tuệ bấm mạch thấy xác còn hơi ấm, kinh mạch trì bế nhưng chưa tắt hẳn, nên ra sức cứu chữa theo lệnh của Tự Hấp. Kẻ được cứu nạn là Đoàn Thông, quê ở lộ Hồng Châu (Vĩnh Phúc ngày nay). Ông bị một tên gian quan ở Thăng Long là Nguyễn Cố hãm hại. Vốn là thầy địa lý có tiếng tăm, Đoàn Thông mách với Tự Hấp rằng ở vùng Thái Đường có khu đất tụ nhiều linh khí. Nếu đặt mộ tổ vào đó, ắt có ngày sẽ phát đế vương. Tự hấp nghe xong cả mừng, xin cha cho đi gấp về Đông Triều chuyển mộ cụ tổ TRẦN TỰ MAI về an táng tại Thái Đường, rồi chuyển gia quyến về đó sinh sống. Nhờ vậy gia tộc họ Trần mỗi ngày thêm phát đạt, VÕ PHÁI ĐÔNG A ngày thêm lừng lẫy, thu hút nhân tài khắp nơi về tụ hợp....
----------
VietDieuDongA-DTQ
P/S :
***Bài viết này cũng là lời giải đáp với các đệ- Trần Tiệp--Trần Hạnh--Trận Huy Vũ--và David Trần...
***Từ (1) đến (10) là tuần tự các đời Tổ .
spacer

Lạ lùng vị Tể tướng nhờ đi tắm bị trộm áo quần mà lấy được vợ

(Dân việt) Thuở hàn vi, một lần Tể tướng Nguyễn Văn Giai đi tắm bị mất trộm hết quần áo, được một cô gái lén để cho mảnh vải đóng khố về. Khi đã đỗ đạt, ông hỏi cưới cô gái ấy để trả ơn.
Nguyễn Văn Giai (1553 – 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, là công thần có công phò giúp nhà Lê trung hưng. Ông là người nổi tiếng chính trực và giữ nghiêm pháp luật triều đình, được người đương thời nể trọng.
Tể tướng Nguyễn Văn Giai quê ở thôn Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Xuất thân trong một gia đình có tổ tiên từng nhiều đời đỗ đạt, như Trạng nguyên Nguyễn Văn Long, Bảng nhãn Nguyễn Văn Quý, Thám hoa Nguyễn Văn Cẩn, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Văn Lâm, nhưng đến đời người cha là Nguyễn Văn Củng thì chỉ còn là một khóa sinh nghèo.
Vốn có sức khỏe bẩm sinh, Nguyễn Văn Giai phải làm đủ các nghề khó nhọc như gánh củi thuê để lấy tiền mua giấy bút để theo học một ông Thái học người cùng làng.
Một hôm gánh thuê về, trời nóng bức, Tể tướng Nguyễn Văn Giai khi ấy lội xuống tắm ở cái ao trước cửa nhà thầy học. Trong lúc đương bơi lội, quần áo trên bờ bị đứa vô lại nào lấy mất, ông phải ngâm mình dưới nước mãi không dám ngoi lên.
Bên kia ao là nhà một ông giám sinh, có cô con gái ra ao định giặt, nhưng thấy ông đương tắm đành phải quay vào. Một lúc nữa, trở ra lại thấy như vậy. Rồi một lúc nữa, cô kia ra, loanh quanh ở bờ ao, bỏ lại trên bờ mấy chục thước vải. Ông cảm lòng cô gái, lấy vải đó đóng khố rồi đi về nhà.
Năm 1579, nhà Lê trung hưng mở khoa thi ở Thanh Hóa (khi đó kinh thành Thăng Long vẫn do nhà Mạc chiếm giữ), ông thi đỗ Giải nguyên. Năm 1580, vua Lê mở khoa thi Hội đầu tiên ở sách Vạn Lại, ông đi thi tiếp, đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình đỗ luôn Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ. Ông là vị Tam nguyên đầu tiên của thời Lê trung hưng.
Sau khi thi đỗ, ông đến nói với ông giám sinh, hỏi cô gái ấy làm vợ thứ. Sách Tang thương ngẫu lục của hai tác giả Phạm Đình Hồ, Nguyễn Án kể rằng, ông giám sinh phải phân trần với ông Giai:
– Con gái tôi vô duyên. Hôm qua, tôi đã trót nhận lời gả cho một người học trò của tôi, cũng là bạn đồng khoa của ông đấy. Xin ông đừng lấy làm lạ sao tôi lại từ chối.
Ông đồng khoa kia đến, hai bên tranh biện mãi, không giải quyết xong. Ông nói:
– Tôi vốn đã có vợ từ lâu, không phải dám tham sắc đẹp để mua cười với bạn. Chỉ vì hồi trẻ, hàn vi, từng được đội ơn người khuê các để mắt xanh đến, nên đã dốc lòng mến yêu từ đấy. Giời đất quỷ thần hẳn đều soi xét, lòng này có dám man muội đâu.

Nhân kể rõ câu chuyện ngày xưa. Ông giám sinh vào trong nhà, hỏi chuyện con gái thì con nói cũng đúng như vậy. Bèn gả cho ông Giai. Đó là bà phu nhân thứ ba của ông, ông yêu quý bà như bà cả vậy.
Đền thờ tể tướng Nguyễn Văn Giai. 

Sau khi đỗ Đình nguyên, Nguyễn Văn Giai được chúa Trịnh Tùng bổ nhiệm chức Tán ký lục trong quân đội. Ông đóng vai trò tham mưu kế sách quân sự trong trướng cho Trịnh Tùng, có nhiều công lao vào việc đánh bại nhà Mạc, chiếm lại kinh thành Thăng Long năm 1592. Năm sau, Nguyễn Văn Giai được thăng chức Đề hình Giám sát Ngự sử.
Năm 1608, ông được thăng làm Đô ngự sử. Ông có nhiều công lao trong việc bang giao với nhà Minh, đánh dư đảng nhà Mạc ở Cao Bằng, nên được thăng lên đến chức Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, nắm việc cả sáu Bộ kiêm Đô ngự sử, hàm Thiếu bảo, tước Lễ quận công, được xem là người có công lao đứng đầu lúc đương thời.
Ông mất khi đang tại chức năm 1628, thọ 75 tuổi, được triều đình truy tặng chức Đại tư đồ.
spacer

THẤU ĐỊA LỤC THẬP LONG QUYẾT ĐOÁN CÁT HUNG






  TRẦN VĂN ĐƯỜNG
  Biên dịch



THẤU ĐỊA
QUYẾT ĐOÁN
KIẾT HUNG







LỜI MỞ ĐẦU

Phong thủy là niềm tin trong cuộc sống của nhiều người để giải tỏa những lo âu do thị phi bàn bạc. Có thể không cần dùng hai từ phong thủy để xác định một quan cảnh sống hợp lý, hài hòa, thỏa mái; từ cách nhìn không vướng mắt, đến chỗ nằm chỗ ngồi an tâm đã là phong thủy trong cuộc sống.
Tuy nhiên chiều sâu của phong thủy được nhiều tiền bối gạn lọc, tích lũy lại thành sách vở cho đời là vấn đề cần giải mã đúng, ứng dụng có khoa học, tất nhiên sẽ tránh trước được những thiếu sót không đáng có. Mỗi tiền bối soạn một sách dựa trên cơ bản của âm dương dịch lý biến hóa qua 64 phép chập của tám quẻ  theo hậu thiên hoặc phối hợp âm dương trên tiên thiên bát quái để định kiết hung. Sở dĩ mỗi vị thầy dụng một sách vì nhìn nhận của thầy nằm trong tư duy có thể có phần bảo thủ của thầy. Điều quan trọng là kết hợp tại đâu cho khoa học, kiểm nghiệm thực tế từ đâu để kết luận nên làm hoặc nên tránh.
Lòng không yên cuộc sống sẽ chưa yên, do đó ta đi tìm nơi nương tựa mà cơ bản là điều người xưa đã xác nhận.

Thấu địa lục thập long quyết đoán cát hung là tài liệu viết bằng chữ Hán của Đài Loan, một phần trong một tác phẩm phong thủy ấn bản năm 1946. Đây là cơ bản của khoa phân châm lý khí, không thể thiếu nhưng chỉ một thấu địa lục thập long là thiếu để tìm cát sự. Hai yếu tố khác cần có để hội đủ trong phạm vi xác định âm phần không bao gồm hung niên, trạch nhật. Thứ nhất là định đúng la bàn khi mỗi năm địa từ trường đẩy lệch kim nam châm theo tuần dương, tuần âm có biên độ rộng đến 23 độ trong khi chỉ cần 5 độ là đã có thể rơi vào vị trí hung hướng, sát sơn. Thứ hai là kết hợp khoa loan đầu định cuộc, nếu lý khí đạt vị thủ tọa túc hướng tốt nhưng không thể để đầu xoay vào hướng thấp hoặc trực xung thủy xạ. Không ai là nhà nghiên cứu phong thủy cả, tất cả chỉ là người tìm tư liệu - tổng hợp - ứng dụng, hơn thua là vấn đề biết loại bỏ những thủ thuật đưa thiên hạ vào chốn mê hoặc và biết vận dụng những phát minh chuẩn xác hiện đại. Đừng vội đề cao mình là thầy giỏi, quan trọng là đủ sách để ứng dụng chưa chứ không phải lợi khẩu nói hay là giỏi, không rõ thì không nên làm đừng đổ hết phần họa phước vào phước chủ,

Mỗi vị trí, mỗi hướng tốt xấu chưa có thầy nào nhìn nỗi vũ trụ vận hành tạo ra ảnh hưởng ấy, nhưng tất cả như một bài toán (dịch lý) có lời giải sẵn, sự xung khắc hòa hợp dựa trên thể dụng của vũ trụ trước mắt ta. Tóm lại ta không cần biết số p do đâu và bao giờ là hữu hạn mà ta là người thừa hưởng, ứng dụng phong thủy cũng giống vậy.

Muốn sử dụng được Thấu địa lục thập long quyết đoán cát hung trước hết phải biết xem la bàn. Sở dĩ tôi giới thiệu đến thân hữu tập sách nầy vì có những khuôn khổ ngày nay đã khép việc chôn cất theo quy hoạch, việc của chúng ta là tìm tránh những xung phạm theo sách vở chứ không còn quyền định cuộc trong một quần thể nghĩa địa quy hoạch. Như vậy ta có thể chấp nhận với thực tế để chế lại trong phạm vi còn được phép.

Hy vọng tập sách nầy tuy ít nhưng góp phần lớn trong việc tạo phước cho nhiều nhà, giải tỏa được một phần lo âu khi người thân nằm xuống nơi lòng đất chờ được hóa thân.



Thành phố HCM, mùa thu năm Quý Tỵ (2013)
Trần Văn Đường
Tranvanduong.sg@gmail.com






spacer

VĂN HÓA DÒNG HỌ - DI SẢN KẾT NỐI HUYẾT THỐNG VÀ THÂN TÌNH MỌI NHÀ


             
               VĂN HÓA DÒNG HỌ
---
---
DI SẢN KẾT NỐI HUYẾT THỐNG VÀ THÂN TÌNH MỌI NHÀ
Trần Văn Đường, chuyên viên gia phả TTNCTHGP - Viện LSDH Tp HCM

Cụm từ Văn Hóa Dòng Họ được khai sinh vào thập niên đầu của thế kỷ 21, rất đơn giản nhưng khi phân tích mới thấy rất sâu sắc đối với các dòng họ Việt Nam.
Văn hóa dòng họ Việt Nam hay văn hóa của các họ người Việt Nam là sợi dây ràng buộc huyết thống nhiều đời, nhiều thế kỷ của người Việt Nam, là con đường dẫn dắt từng thành viên bước ra từ gia đình để đến với gia tộc, với đại gia tộc, với đồng tông, với các quan hệ các tộc họ và cuối cùng là quốc tổ được gói gọn trong hai tiếng đồng bào. Việt Nam là một trong số rất ít của các nước Châu Á có nét văn hóa sâu đậm tính nhân văn, gắn liền với đạo đức truyền thống giống nòi, luôn quý trọng những gía trị riêng tư thuộc về dòng họ và tổ tiên đã giữ gìn cẩn trọng như sợ dòng máu họ sẽ bị loãng đi làm cho con cháu xa lìa nguồn cội tổ tông.
Nét văn hóa dòng họ đó đang hiện diện ở đâu?
Trước tiên là con người mang phong thái, thể diện của nhân tố từ cốt cách gia phong của mỗi gia đình đang chịu ảnh hưởng những ước lệ và giá trị đạo đức truyền thống của họ tộc. Ai cũng có tình cảm và tập quán của gia đình, họ khó có thể chối bỏ gia đình để chấp nhận một sự thật xấu hơn để giẫm lên đau thương của gia đình và không thể quên niềm tự hào gia đình, gia tộc. Gia đình đã tạo ra con người mang văn hóa gia đình thì chính dòng họ tạo ra gia đình có văn hóa dòng họ, ngược lại con người văn hóa làm nên vẻ vang của gia đình và dòng họ tạo sự ảnh hưởng sâu đậm nét văn hóa cho nhiều dòng họ. Mọi gia đình, mọi gia tộc đều có sự vinh quang để tự hào dẫu tộc họ, họ lớn hay nhỏ, gia đình giàu hay nghèo vẫn gắn liền với lịch sử nên phải thăng trầm, chuyển đổi, có thể không giống nhau trên phương diện bề dày thời gian trú ngụ, chưa đủ lực để phô trương nhưng chiều sâu văn hóa đã rất phong phú.
Họ nội, họ ngoại là những cánh cửa để đến tiếp nhận giá trị chân thực tình cảm của một nửa dòng máu cha và một nửa còn là dòng máu mẹ làm ảnh hưởng đến sự phát triễn trong họ nội nên mỗi dòng họ có một hoạch định riêng giữ gìn nền nếp của họ.
Làm người sợ nhất là làm ô nhục gia đình, tổ tông; đó chính là tình cảm tìm ẩn trong tình yêu gia tộc, là động lực phát sinh ra nhiều hình thức làm đẹp dòng họ. Mọi người hãy dành vài phút đánh thức tiềm thức mình, chắc chắn văn hóa dòng họ sẽ hiện diện với mình như một trang nghĩa tình có sẵn.
Xa hơn nữa trên phạm vi cả nước, sự kết nối với đồng tông, mọi người đều thầm hiểu ra rằng ta có chung một cội nguồn nguyên thủy, mọi người đều cảm nhận trong máu họ có nhiều ít giống nhau về huyết khí nguyên sinh để gần lại với nhau, cùng tìm ra một lịch sử để tự hào, cùng tìm ra một chặng đau thương để xót xa. Lấy ví dụ, người họ Trần luôn tự hào và cảm nhận dòng máu Đông A mang theo hào khí đang chảy trong họ dù rất nhiều đời vẫn không khô cạn và các dòng họ khác cũng có điều vinh quang để hãnh diện về tổ tiên mình. Sự lan tỏa không còn giới hạn trong dòng họ, trong đồng tông mà đã đan xen tình dân tộc, hướng về với Vua Hùng, với giòng giống Lạc Hồng, với tổ quốc Việt Nam để cùng tự hào dân tộc 4000 ngàn năm văn hiến, cùng đau nỗi đau 100 năm đô hộ giặc Tây, cùng hờn căm 1000 năm Bắc thuộc. Sự hình thành đó, tinh thần đó chỉ có bắt đầu trong văn hóa dòng họ Việt Nam.
Một chuỗi kết nối từ gia đình, họ tộc đến dân tộc và đất nước được vun bồi, muốn duy trì sự kết nối ngàn đời cho huyết thống không mờ nhạt, cho thân tình không mai một, nghĩa đồng bào không cạn kiệt cần phải phát huy và bảo tồn các hình thái di sản văn hóa dòng họ.
Đó chính là đạo lý sống của con người mà then chốt là kỷ cương gia đình và dòng họ, phải được luật pháp của nhà nước bảo hộ. Bất kỳ ai cũng phải hiểu biết quyền thừa hưởng giá trị đạo lý gia đình và phải có bổn phận thực hiện những việc tạo ra sản phẩm đạo lý gia đình, dòng họ.
Không ai dám phủ nhận tình yêu của kẻ sanh thành đã đặt để trên họ, không ai chối bỏ mầm sống đang mang theo hạt giống tâm hồn của chính họ do cha mẹ và tổ tiên ban tặng, dù họ có theo một đạo giáo nào ngoại trừ kẻ mất nhân phẩm. Cha mẹ sanh ra con và nuôi dưỡng không kỳ hẹn thời gian và không gian, không có tình yêu thương nào lớn hơn tình yêu cha mẹ dành cho con. Tình yêu ấy trải dài đến thế hệ kế tiếp là cháu, bao nhiêu đánh đổi trong cả một đời, khoảng cách cuối cùng cũng chỉ cho con, cháu, chắc, chít; họ đang tiếp nối nhau hoàn thành sứ mệnh trồng người cho một dòng họ.
Gia tài vật chất của tổ tiên không đủ để trang trải một cách đồng đều trên mọi con cháu nhưng gia tài tình yêu của tổ tiên thì bao la đang là bóng che cho tất cả. Kẻ sanh thành không tham vọng người kế thừa phụng sự gì cho họ mà chỉ duy nhất một ước mơ là kẻ được họ sanh ra xứng đáng làm người, con người đủ nhân nghĩa, trí tuệ và đức độ. Chúng ta không thể quên đi công ơn, không thể không quý mến và không thể không trân trọng một tình thương đang thầm lặng trong trái tim người Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam từ lâu hình thành một di sản văn hóa dòng họ.
Với tình thương, với niềm tin, với mong đợi của tổ tiên ta nghĩ gì, trách nhiệm mỗi người cần tìm lại những gì, tìm nơi đâu và báo đáp như thế nào? Chúng ta nên bước theo dấu vinh quang tổ tiên từng bước, chúng ta hãy vun bồi đạo lý, tình thương, tinh thần dân tộc từ trong dòng họ cho lớp lớp hậu sanh được kế thừa. Lễ nghi, di chỉ, văn tự, di tích hiện hữu được bảo tồn và đang phục dựng là nền tảng phát triển chúng ta cần bàn dưới đây.
1/ Không gian thờ tại gia đình:
Mọi gia đình Việt Nam đều bày trí thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ và người thân đã từ trần trong nhà. Mục đích để tỏ bày lòng kính yêu và nhớ thương người thân của gia đình, nhưng sự bày ra không chỉ trong suy nghĩ đó mà tổ tiên đã muốn con cháu họ thấy rằng họ đang hiện diện ở đó để từng thế hệ có mối quan hệ huyết thống cùng về sum họp trong những ngày giỗ chạp, những ngày lễ truyền thống dân tộc. Không gian thờ tự, linh vị, di ảnh đã hiện thực hóa một đại gia đình có đủ ông bà, cha mẹ, anh em, đánh thức tình cảm thiêng liêng mỗi con người, làm gần lại trong hai tiếng cốt nhục tình thâm.
2/ Nhà thờ tộc- Nhà thờ đại tộc:
Sau bốn đời tổ, đời tổ thứ năm được quy tụ thờ tại nhà thờ tộc như câu nói dân gian "ngũ đại mai thần chủ", thờ các tổ từ đời thứ năm trở về trước cho đến vị đầu phái hoặc vị tổ của tộc được bày trí theo một cung cách khác hơn gia đình. Bởi lẽ, kinh phí hương hỏa đến đó không còn đủ để tạo ra cơ hội cho con cháu tụ tập tại gia đình mà hiệp kỵ tòng theo ngày húy kỵ của vị tổ tộc. Như vậy, sau gia đình là nhà thờ tộc vẫn là nơi để con cháu sum họp, sợi dây kết nối dài hơn để trói buộc nhiều thế hệ trong những ngày giỗ tộc.
Tổ tiên không chờ đợi cháu con về dâng lễ phẩm, cúng tế thỉnh rước long trọng tại ngôi từ đường trong những dịp lễ mà đó là nghi thức mang tính tâm linh con cháu cần thực hiện để không quên mình là con cháu. Trong khung cảnh trang nghiêm khói hương lan tỏa ca ngợi linh thiêng tổ tông, gia thế dòng họ; các hoành phi câu đối thâm sâu ý tứ chuyển tải cả lịch sử dòng họ mình là lúc cháu con nội ngoại đang lắng nghe và đang tìm kiếm sự gần gũi với tổ tiên với anh em, để cùng vinh danh mình, biết rỏ hơn về mình.
Do phát triễn số người, số hộ trong họ, quá đông hội đồng gia tộc chia thành chi tộc, nhà thờ cựu vẫn giữ và trở thành nhà thờ đại tộc. Nơi đây phụng thờ vị sơ tổ của dòng họ và các đời kế tiếp đến vị tổ của các chi họ, thờ phụng tại nhà thờ tộc. Ngày giỗ ở đây sẽ quy tụ cháu con toàn tộc, bao gồm các chi họ, ý nghĩa và tinh thần ngày hội giống giỗ tộc, lễ nghi không khác nhưng có thể hằng năm hoặc ba năm tổ chức một lần. Sự kết nối lớn hơn, sự chia sẻ có tầm ảnh hưởng sâu xa hơn. Dưới bóng tổ tiên, họ có cơ hội tỏ bày tình cảm bằng nhiều cách nãy sinh những chương trình tương tế, khuyến học, học bỗng ... xây dựng phát xuất từ yếu tố văn hóa.
3/ Lăng mộ:
 Lăng mộ, nơi gửi hình hài người quá cố, ở đây là người thân của gia đình họ hàng, chút thương ngày trước chắc chắn phải còn vương vấn quanh đây. Sống nhà thác mồ, người qua đời cũng muốn ấm thân, tất nhiên phận làm con cháu phải biết nhìn xung quanh. Ngày thanh minh tảo mộ một nén hương nhớ người nằm đó, khói bay quấn quýt  không khỏi luyến thương bên lòng người đang sống. Cha nặng lòng, con cảm mến, anh em cả họ đồng nghĩ suy tự nơi đó gắn nhau huyết thống, gần đó bao người cũng cảm thông là văn hóa. Con cháu ngồi bàn xây mộ tổ, gia đình chung cùng sửa mộ mẹ cha, cả nghĩa địa như phố phường nho nhỏ không phải là hoang phí mà chính là văn hóa của dân ta để quê hương là một phần xương thịt người thân.
4/ Gia phả:
Bằng chứng đích thực nhất của mối dây thế thứ ràng buộc gia tộc và quan hệ tình thân từ nhiều họ ngoại là gia phả. Gia phả đã mở cho chúng ta đường về quá khứ tìm dấu vết tổ tiên đi qua thời gian, từng chặng gian nan lúc huy hoàng và cả ân tình nghĩa trọng đều được ghi trên đó. Chúng ta không có gia phả là chúng ta đang lạc loài, không có tổ tông, không đối chứng được khi tìm gốc tích. 
Nước có sử nhà có phả, vạn vật hồ thiên nhân sanh hồ tổ, chúng ta đừng quên điều đó, đừng mong đợi tìm ra dòng máu trong họ đạo hay hộ tịch chính quyền.
4/ Đình làng:
Sở dĩ đề cập đình làng khi bàn về văn hóa dòng họ vì chúng ta phải hiểu đình làng đúng nghĩa đã thờ ai. Đầu tiên đình là nơi dừng chân của mỗi địa phương, kế đến dùng làm cơ quan của hội tề làng, sau cùng thờ Bổn Cảnh Thần Hoàng sắc phong "Lệnh cho Thần Hoàng bổn cảnh hộ quốc tí dân, dân có bổn phận thờ tự", cách đối đầu với Pháp để giữ đất của vua Tự Đức (nơi nào có sắc vua nơi ấy dân của triều đình). Nhưng đó là nơi thờ Tiền Hiền, những tổ tiên của các họ đầu tiên đến phá cỏ cây lập làng. Ngôi nhà chung của các họ, chỗ chư tộc cùng sum họp hội hè, họ đã ngồi chung với nhau như tổ tiên họ ngồi trên hương áng, tình quê tình làng nghĩa xóm có được từ đây bắt nguồn trên văn hóa dòng họ.
5/ Ban Liên Lạc dòng họ - Nhà thờ đồng tông:
Ban liên lạc dòng họ, huyện, tỉnh, vùng và nước Việt Nam được hình thành dựa trên tinh thần văn hóa dòng họ nhằm gìn giữ đạo đức, phát huy các phong trào lợi ích vì dòng họ. Mỗi họ đã chọn một lịch sử, một Tiền bối họ mình có sự nghiệp vẻ vang nhất để làm tổ họ cả nước, để cuối cùng kết nối với Vua Hùng tổ của trăm họ.
6/ Trung Tâm UNESCO Văn Hóa Dòng Họ Việt Nam:
Quan niệm khác biệt của văn hóa phương Tây, ông bà cha mẹ nuôi con là trách nhiệm, quan hệ gia đình rời rạc, xã hội chi phối hầu như không cần huyết thống, vợ lấy cồng lấy theo họ chông thậm chí chọn họ một cách tự do. Bởi vậy Liên Hiệp các Hội UNESCO không ngần ngại thâm nhập văn hóa dòng họ Việt Nam thông qua tổ chức UNESCO thế giới. Mục đích tìm hiểu và nhân rộng nét phong phú cho nhân loại, nhằm giáo dục cho xã hội có một đức tính cao đẹp. Đúng vậy, TT UNESCO nghiên cứu văn hóa dòng họ Việt nam đã có quan hệ hầu hết các tộc họ, họ đã thừa nhận dòng họ Việt Nam mới sâu sắc, mới thật sự thân thiện và tìm phương hướng chia sẻ kinh nghiệm đến mọi nơi.    
Để khẳng định sức mạnh văn hóa dòng họ của con người trong xã hội Việt Nam, qua thời gian đã có những vấn đề cho chúng ta nhìn nhận.
- Thiên Chúa giáo truyền bá vào Việt Nam, giáo lý dạy không thờ lạy thánh thần ma quỷ, hơn 200 năm, giáo dân quay lưng với việc thờ cúng tổ tiên, tách rời văn hóa dòng họ, họ đã cô đơn lạc loài giữa cộng đồng dân tộc. Cuối cùng các cha xứ đã nhìn nhận được sai trật tìm cách đưa giáo dân về lại bản sắc xưa, lập lại bàn thờ tổ tiên, về lại các từ đường dâng hương cùng dòng họ, nhận lại tình yêu thiết thực từ tổ tiên.
- Sau một thời gian dài lặng im gần như cấm đoán dưới thời bao cấp, ngày giỗ của gia đình đơn sơ hóa trong sự khó khăn do quản lí của nhà nước, ngày giỗ tộc, ngày chạp mả không còn, nhà thờ tộc hoang vắng. Một thực tế của suy sụp văn hóa dòng họ dẫn đến hệ lụy người cùng huyết thống, cháu con nội ngoại thành người dưng, thêm vào đó ba đời trực hệ được lấy nhau đã xô đẩy xã hội vào bờ vực loạn luân, xa lìa thuần phong mỹ tục.
Khi nhà nước bắt đầu công nhận những di tích lịch sử ở nhiều nơi, nhiều cấp vào thập niên cuối cùng thế kỷ 20, tín hiệu văn hóa dòng họ được khôi phục, mọi người thấy rằng không thể xóa bỏ dù ở trường hợp nào. Văn hóa dòng họ vẫn mãi là sợi dây không thể vứt bỏ, được trải ra từ nhiều đời tổ tiên để mọi nhà, mọi người vin vào đi theo gìn giữ giống nòi, không để lạc mất nhau, không từ bỏ cội nguồn và tình thân cả dân tộc cũng được tô bồi.

Ngày 10 / 7 / 2018 
tại OREGO USA.







spacer

Hoang tàn mộ phần phi tần bạc mệnh



Từng là phi tần của vua Thành Thái nhưng một người con của làng Hội Kỳ (xã Hải Chánh, H.Hải Lăng, Quảng Trị) là bà Dương Thị Ngọt đã chết một cách đầy bí ẩn. Ngày nay, ngôi mộ của bà vẫn còn đó, nhưng hoang phế đến mức tội nghiệp như chính cuộc đời của giai nhân này…







Cái chết bí ẩn
Đến tận bây giờ, đi dọc dòng Ô Lâu hỏi ai là người phụ nữ tài sắc bậc nhất của vùng quê kiểng này, hẳn người am tường vẫn còn nhắc tên bà Dương Thị Ngọt. Bà được ví như sinh ra từ dòng nước sông mát lành.
Dương Thị Ngọt là con gái của ông Dương Quang Xứng, người từng giữ đến chức Bố Chính tỉnh Khánh Hòa (quan trông coi tài chính cho tỉnh). Sử xưa kể lại rằng trên con đường hoạn lộ, dù làm gì, ở đâu ông Xứng cũng mang cô con gái rượu là Dương Thị Ngọt theo cùng.
Càng lớn lên, Dương Thị Ngọt càng xinh đẹp. Chính vì thế, bà nhanh chóng lọt vào mắt xanh của vua Thành Thái. Bà Ngọt được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, bậc chín, được hưởng lương 180 quan tiền và 48 vuông gạo. Bà sinh được một hoàng nam nhưng bị đau chết, khi mới một tuổi.

 
Mộ bà phi tần Dương Thị Ngọt nằm giữa bãi đất trống sau làng Hội Kỳ


Cái chết của phi tần Dương Thị Ngọt gắn liền với những giai thoại bí ẩn. Chuyện rằng, khi đã là người của vua, bà Ngọt được sủng ái muôn phần, nên bị các bà phi khác đố kỵ. Có tích rằng, những người này đã lừa cắt của bà Ngọt một nắm tóc (điều cấm kỵ đối với phi tần thời phong kiến) rồi mật báo cho vua Thành Thái. Vua nổi giận lôi đình nên đưa bà Ngọt ra xử chém.
Nhưng cũng có một tích khác do ông Dương Quang Diêu (sống ở làng Hội Kỳ, cháu họ của bà Ngọt đời thứ 3) kể thì có vẻ như bà Ngọt chết chỉ bởi… một câu nói. Chuyện rằng, vua Thành Thái thường cắt tóc ngắn, dạo đó sau khi cắt tóc, vua đi hỏi các bà phi xem có đẹp không. Trong khi các bà đều ve vuốt, khen đẹp thì bà Ngọt lại nói trớ ra rằng: “Trông giống như kẻ cướp ấy”. Chỉ vì câu nói này, bà Ngọt phạm tội khi quân, đã bị nấu trong vạc dầu đến chết. Tuy nhiên, cũng có người phản đối tích này vì cho rằng triều Nguyễn ngày xưa không sử dụng hình thức vạc dầu để xử tử.
Dù ra lệnh xử tử bà Ngọt nhưng cũng chính vua Thành Thái lại tổ chức hậu sự cho ái phi của mình hết sức trọng thị, đúng lễ nghi. Theo lời kể đầy tự hào của ông Diêu thì quan tài bà Ngọt được đưa từ kinh thành Huế về làng Hội Kỳ bằng đường sông, trên thuyền rồng. Khi lên bờ, các phu phen gánh quan tài đi đến đâu thì rải chiếu hoa đến đấy. Sau khi an táng, nhà vua còn cử 4 từ phu coi lăng và cấp ruộng đất cho những người này như cách để trả công.

Cái chết của phi tần Dương Thị Ngọt gắn liền với những giai thoại bí ẩn


Cho đến hiện nay, nhiều người vẫn coi câu chuyện của bà Ngọt là “tình sử Ô Lâu”. Còn theo nhà báo Nguyễn Hoàn, Phó giám đốc Sở Thông tin Truyền thông, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị (người từng có chuyến điền giả để lần theo dấu vết cuộc tình này) thì còn nhiều hoài nghi trong các chết của bà Ngọt.
“Nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc của bà Ngọt có liên quan sâu xa gì đến tâm sự u uất của vua Thành Thái không? Ông vua yêu nước Thành Thái đã từng giả điên để che giấu mưu đồ chống Pháp (bởi thế mà ông từng được mệnh danh là “vua điên”). Quyền hành nhà vua bị thực dân Pháp thu hẹp dần, mọi cải cách nhà vua đưa ra đều bị cản trở. Cả đến những cử chỉ “duy tân” của nhà vua như tự lái xe hơi, lái xuồng máy, cắt tóc ngắn... cũng bị khâm sứ Pháp và bọn bồi Tây dò xét, nghi ngại. Thậm chí, chúng còn phao tin nhà vua điên thật để kiếm cớ truất phế. Vậy cái chết của bà Ngọt có liên quan gì đến chuyện “giả điên” của vua Thành Thái không, có liên quan gì đến một khúc quanh của lịch sử không?”, ông Hoàn đặt vấn đề.
 
Xót xa bên mộ người xưa
Một ngày giữa tháng giêng năm Mậu Tuất 2018, men theo con đường mòn dẫn ra một khoảng đất trống hoang vắng phía sau làng Hội Kỳ, chúng tôi đến được khu vực mộ của bà Dương Thị Ngọt. Qua thời gian, ngôi mộ vợ vua Thành Thái đã xuống cấp nghiêm trọng, làm cho những ai chứng kiến đều không khỏi xót xa.

 
Bên trong khu vực mộ của bà Dương Thị Ngọt
Dẫu rằng, qua những gì còn sót lại có thể thấy so với ngày trước, đây là một lăng mộ bề thế, lại được đặt ở vùng thôn quê như Hội Kỳ thì hẳn không thể có cái nào lớn hơn vào thời kỳ đó. Lăng được xây tường gạch bao quanh, có cổng vòm, diện tích bên trong chừng 20 m2, phía chính giữa là ngôi mộ bà Ngọt cùng bia đá. Hiện nay, hầu như các hạng mục của khu vực mộ bị xuống cấp nặng, xung quanh cỏ dại mọc um tùm.
Chúng tôi phải lấy khăn chùi lớp bụi trên bia đá mới thấy được những Hán tự khắc bên trên: “Hoàng triều cửu giai tài nhân thụy Thục Thuận Dương thị chi tẩm. Thành Thái thập tam niên bát nguyệt cát nhật tại”.Tạm dịch: “Lăng của bà họ Dương, bà phi của nhà vua được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, có tên thụy là Thục Thuận, lăng được dựng vào ngày lành, tháng 8, năm Thành Thái thứ 13”.


 Được biết, trước đây gia đình bà Dương Thị Ngọt có lưu giữ một tờ sắc phong cổ nhưng sau đó có nhà báo đến tìm hiểu, mượn tờ sắc phong cổ đó nhưng không trả lại nên giờ thất lạc đâu không rõ.




    

 
spacer

Tuần phủ Lê Trung Ngọc với việc định lệ Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương

1.Lê Trung Ngọc là quan Tuần phủ tỉnh Phú Thọ (từ tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921).
Ông sinh ngày 20 tháng 10 năm 1867 (tức ngày 23 tháng 9 năm Đinh Mão), trong một gia đình nho học; quê ở làng Liên Thành (xưa là ấp Tân Quảng), tổng Dương Minh, huyện Bình Dương, tỉnh Chợ Lớn (nay là phường 5 và phường 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh).

Tuần phủ Lê Trung Ngọc (1867 – 1928).(Ảnh do cháu nội cụ cung cấp năm 2009)
– Năm 1883, sau khi học xong trường Hậu Bổ Cây Mai Sài Gòn (Collège dés Stagiaires), ông ra đất Bắc làm việc trong chính quyền các cấp của triều đình nhà Nguyễn.
– Tháng 1 năm 1903: Làm Tuần phủ tỉnh Bắc Ninh.
– Tháng 7 năm 1903: Làm Thương tá tỉnh Vĩnh Yên.
– Tháng 3 năm 1908: Làm Án sát tỉnh Vĩnh Yên; sau đổi làm Án Sát tỉnh
Phúc Yên.
– Tháng 6 năm 1909: Làm Án Sát tỉnh Sơn Tây.
– Tháng 2 năm 1912: Làm Tuần phủ tỉnh Sơn Tây.
– Tháng 4 năm 1913: Làm Tuần phủ tỉnh Bắc Giang.
– Tháng 12 năm 1913: Làm Tuần phủ tỉnh Quảng Yên.
– Tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921: Làm Tuần phủ tỉnh Phú Thọ.
– Tháng 2 năm 1921: Làm Tổng đốc tỉnh Hải Dương.
– Tháng 1 năm 1924: Làm Tổng đốc tòa Thượng thẩm, Hà Nội.
– Tháng 7 năm 1927: Nghỉ hưu tại Hà Nội.
– Ngày 8 tháng 6 năm 1928 (tức ngày 21 tháng 4 năm Mậu Thìn): ông mất tại Hà Nội; hưởng thọ 62 tuổi.
Tuần phủ Lê Trung Ngọc còn là một trong những người sáng lập ra Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương tế ở Hà Nội (hiện còn bia khắc tên tại 79 phố Hàng Trống – Hà Nội).
Ông đã được tặng thưởng nhiều Huân chương như: Kỷ niệm chương Bắc kỳ năm 1888; Huân chương Hiệp sỹ con rồng An Nam năm 1890; Huy chương bạc hạng nhất năm 1891; Huy chương vàng 1892; Hồng Lô tự thiếu khanh năm 1896; Kim Thánh năm 1898; Huân chương Viện hàn lâm năm 1904; Huân chương quốc gia Vương quốc Căm Pu Chia năm 1913…
2.Trong những năm làm Tuần phủ Phú Thọ (1915 – 1921) Lê Trung Ngọc đã dành nhiều tâm huyết và công sức tu bổ, tôn tạo đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Ông sống gần dân và đặc biệt quan tâm tới dân. Ông nhận thấy tại xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có Lăng miếu thờ phụng Quốc Tổ Hùng Vương, hàng năm nhân dân cả nước nô nức tìm đến lễ bái; họ thường tự chọn ngày tốt theo bản mệnh từng người vào các tháng trong suốt cả năm, song tập trung vào mùa xuân và mùa thu chứ không định rõ ngày nào, trong khi tục lệ của dân bản xã lại lấy ngày 11 tháng 3 Âm lịch hàng năm kết hợp với thờ Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ làm lễ tế Tổ tại Hùng Vương Tổ miếu. Như vậy thời gian lễ bái duy trì kéo dài triền miên, vừa tốn kém tiền của, lãng phí thời gian lại vừa phân giảm lòng thành kính cũng như sự trang nghiêm tri ân công đức các Vua Hùng.
Đầu năm 1917, ông trực tiếp làm bản tấu trình với Bộ Lễ xin định lệ hàng năm lấy ngày 10 tháng 3 Âm lịch để tổ chức quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, trước một ngày so với ngày hội tế Hùng Vương, Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ của dân xã bản hạt; đồng thời cũng xin miễn trừ các khoản đóng góp của nhân dân địa phương vào các kỳ tế lễ mùa thu.
Ngày 25 tháng 7 năm 1917 (Niên hiệu Khải Định năm thứ nhất), Bộ Lễ ban hành công văn phúc đáp và chính thức định lệ ngày quốc tế / quốc lễ – Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch và quy định nghi thức, nghi lễ, lễ vật tế Tổ hàng năm.
Bia “ Hùng miếu điển lệ bi ” được Hội đồng kỷ niệm tỉnh Phú Thọ lập và  dựng tại đền Thượng – KDT Đền Hùng mùa xuân năm Quý Hợi, niên hiệu Khải Định năm thứ 8 (năm 1923), đã ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng này (Hiện bia được bảo tồn tại đền Thượng trong KDT lịch sử Đền Hùng).
3.Tên tuổi quan Tuần phủ Lê Trung Ngọc kể từ đó được sử sách ghi chép với tư cách ông là tác giả của việc định lệ Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm.
Tuần phủ Lê Trung Ngọc luôn được người đời tôn trọng vì ông là ông quan gần dân, thương dân, cảm thông với nỗi khổ của người nông dân; đồng thời ông cũng là người có tư tưởng tiến bộ, có ý thức tiết kiệm ngân khố của dân, của nước.
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ, mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm ”.

Năm 2017, kỉ niệm 100 năm sự kiện lịch sử định lệ chính thức Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương (Tổ chức nghi lễ cấp quốc gia), ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm. UBND tỉnh Phú Thọ chủ trì lễ dâng hương tưởng niệm, tri ân công đức các Vua Hùng, có sự tham gia góp giỗ trực tiếp của Thành phố Hà Nội và các tỉnh: Thái Bình, Bình Phước, Bến Tre.

Với ý thức hướng về cội nguồn dân tộc , bài viết này nhằm cung cấp tư liệu lịch sử và giới thiệu xuất sứ của việc định lệ quốc lễ ngày GTHV; đồng thời cũng cung cấp thông tin về sự kiện lịch sử gắn với cuộc đời và sự nghiệp của quan Tuần phủ Phú Thọ (1915 – 1921) Lê Trung Ngọc là người có công đầu trong việc chính thức định lệ ngày quốc lễ trọng thể này./. 
Phạm Bá Khiêm – Chủ tịch Hội VNDG tỉnh Phú Thọ
Theo baotanglichsu.vn
spacer

Về các loại dấu triện kim bảo trên sắc phong thần 1428- 1945

Trong nhiều di tích lịch sử văn hóa đình, đền, miếu thờ ở nước ta còn lưu giữ nhiều đạo sắc phong thần do các triều vua Lê, Mạc, Tây Sơn  và Nguyễn ban cấp.. Trải qua thời gian mấy trăm năm, mặc dù được bảo quản trong hộp gỗ nhưng tới nay một số đạo sắc phong đã bị sờn, rách, chuyển màu vàng nhạt hay hồng nhạt. Đây là những cổ vật bằng chất liệu giấy hiếm quý. Tình trạng các đạo sắc phong này rất cần thiết phải bảo quản theo phương pháp khoa học để bảo tồn lâu dài.

Về kích thước, các đạo sắc phong đều có hình chữ nhật, phổ biến có chiều dài trong khoàng 119cm đến 140cm và rộng từ 44cm đến 53cm. Đặc biệt, sắc phong đời Cảnh Hưng hiện lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia có chiều dài 195cm, rộng 60cm.
Loại giấy dùng làm sắc là giấy dó có độ dai và dày, thường gọi là giấy Nghè vì làm tại làng Nghè, làng Nghĩa Đô huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đây là loại giấy đặc biệt chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng . Trên mặt trước của mỗi đạo sắc thường có diềm vẽ nền gấm chữ Vạn, bên trong diềm vẽ trang trí hình Rồng, mây và chữ Thọ. Nội dung của đạo sắc là bài minh chữ Hán viết tay nên tự dạng khá phong phú. Mỗi bài minh đều có cấu trúc khá giống nhau, đọc từ phải sang trái. Dòng cuối cùng ghi niên hiệu của triều vua và ngày tháng ban cấp đạo sắc. Trên dòng chữ này có đóng một dấu Kim bảo màu son đỏ với 4 chữ Hán theo kiểu Triện thư. Dấu triện này có thể xem như biểu tượng linh thiêng của nhà Vua. Đó là các chữ Tiên Nhu Chi Bảo Sắc Mệnh Chi Bảo. Nhưng ngẫu nhiên trong số 15 đạo sắc phong thần còn lưu giữ tại Miếu Cầu Vương ở thôn Thuận Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, Hà Nội, chúng tôi thấy đạo sắc phong ngày 21 tháng 7 (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh (1821), dấu triện là Phong tặng chi bảo.  Vì vậy, bài viết này xin làm rõ hơn về các dấu triện trên các đạo sắc phong  thần từ thời Lê Sơ đến thời Nguyễn, 1428-1945.

Trước tiên, chúng tôi nêu qua nghi thức đóng dấu kim bảo dưới triều Nguyễn để bạn đọc tham khảo. Các kim ngọc bảo tỷ được cất giữ ở điện Trung Hòa trong Càn Thành. Mỗi khi Nội các dùng đến kim bảo nào thì do Cung giám phụng mang kim bảo đó ra. Mỗi lần đóng dấu kim bảo Ngự tiền chi bảo , Văn lý mật sátSắc mệnh chi bảo, quan Nội các hiệp đồng với Bộ quan đương trực, thiết án giữa Tả vu của điện Cần Chánh để hầu bảo. Khi dùng đến những bảo tỷ khác quan trọng hơn phải theo một thủ tục riêng. Trước hết, cơ quan có trách nhiệm làm phiến tấu trình lên Hoàng đế để xin phép định ngày’’ hầu bảo’’. Đúng ngày định kỳ đã được phê duyệt, án được thiết lập tại điện Cần Chánh. Quan Nội hầu thỉnh tráp đựng ấn ra. Vệ binh cầm kiếm tuốt vỏ đứng hầu hai bên án. Quan Nội các và Bộ quan đương trực mặc phẩm phục bước vào chiếu, mở tráp ấn ra để đóng dấu. Khi ấn được đóng xong, kim bảo được đặt lại vào tráp. Quan Nội các niêm phong giao cho Nội thần nhận thỉnh cất giữ. Mỗi lần đóng ấn về việc gì, Hội đồng phải lập biên bản và ghi vào sổ để theo dõi. Như thế, nghi thức đóng dấu kim bảo của triều Nguyễn rất trang nghiêm và quy củ chặt chẽ mang tính chất nghi thức của quốc gia.

1. Dấu triện Tiên nhu chi bảo.

Ảnh 1. Dấu Tiên nhu chi bảo trên sắc phong thần Miếu Cầu Vương, ngày 5 tháng 5(Âm lịch) năm thứ 5 niên hiệu Quang Trung (1792).
Khi tìm hiểu các đạo sắc phong dưới thời Tây Sơn (1778-1802), các nhà nghiên cứu thấy xuất hiện dấu triện Quảng vận chi bảo đóng trên các văn bản niên hiệu Thái Đức 10 và 11(1787-1788); niên hiêụ Quang Trung 2 (1789), Quang Trung 5 (1792). Dấu Triều Đường chi ấn đóng trên văn bản niên hiệu Quang Trung 5 (1792). Các loại dấu triện này không rõ được được đúc hay khắc bằng chất liệu gì. Nhưng hình dấu son có thể thấy trên sách La Sơn phu tử ( Hoàng Xuân Hãn, 1952) hay sách Ấn chương Việt Nam (Nguyễn Công Việt, 2005). Ngoài ra ,thời Tây Sơn còn dùng 2 dấu triện khác là Sắc mệnh chi bảo và Tiên nhu chi bảo đóng trên các đạo sắc phong thần.

Về dấu triện Sắc mệnh chi bảo  thời Tây Sơn, đến nay chỉ thấy duy nhất trên tờ tư liệu của cụ Hoa Bằng ghi lại ngày 11 tháng 12 năm 1949. Bản này in lại trang 267 của sách Ấn chương Việt Nam (Nguyễn Công Việt, 2005, tr.267). Đây là đạo sắc phong cho Phan Huy Ích chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thị trung Ngự sử , tước Thụy Nham hầu, ngày 18 tháng 4 nhuận, năm Quang Trung 5(1792). Thật tiếc cho đến nay không còn một đạo sắc nào để truy cứu so sánh. Nhưng xem hình dấu, tôi thấy khác hẳn với tự dạng trên dấu triện Sắc mệnh chi bảo thời Lê. Chữ Sắc mệnh kiểu Triện thư, với chữ Mệnh nhô hẳn lên chữ Sắc . Nhưng 2 chữ chi bảo lại giống dấu Tiên nhu chi bảo. Chữ chi có uốn gấp khúc, cân đối.
Theo Nguyễn Công Việt, dấu triện Tiên nhu chi bảo được xem là dấu chỉ dùng dưới thời Tây Sơn. Dấu triện có cạnh vuông 15,2cm x 15,2cm. “ Ý nghĩa là các vị thần phù trợ cho mưa thuận gió hòa, mầm lúa mọc tươi tốt”. Dấu triện này trên đạo sắc phong năm Quang Trung 3 (1790). Chúng tôi thấy trên đạo sắc phong thần ngày 5 tháng 5, năm Quang Trung 5 (1792) ở Miếu Cầu Vương (Ảnh 1).  Như vậy, dấu triện Tiên nhu chi bảo được sử dụng phổ biến trên các đạo sắc phong thần thời Tây Sơn.

2. Dấu Kim bảo 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo
Cho đến nay các tài liệu cho biết những đạo sắc phong thần còn lưu giữ được sớm nhất là thời Lê Sơ (1428-1527). Nhưng nhiều nhất vẫn là thời Lê Trung hưng, thế kỷ 17-18. Trên các đạo sắc phong thần thời Lê đều thấy đóng dấu triện son Sắc mệnh chi bảo. Dấu triện này có kích thước 11,5cm x 11,5cm. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép vào năm thứ 2 niên hiệu Thiệu Bình (1435), hoàn thành đúc 6 quả ấn bằng vàng, bạc là :
Thuận Thiên thừa vận chi bảo , dùng khi truyền ngôi.
Đại Thiên hành hóa chi bảo, dùng khi xuất binh đánh dẹp.
Chế cáo chi bảo, dùng khi ban chế, chiếu ra thiên hạ.
Sắc mệnh chi bảo, dùng khi có sắc dụ và hiệu lệnh thưởng phạt cùng các việc lớn khác.
Ngự tiền chi bảo, dùng đóng vào giấy tờ sổ sách.
Ngự tiền tiểu bảo, dùng khi có việc cơ mật.(Đại Việt sử ký toàn thư,1972,t3,tr.102)
Như vậy, sử liệu này cho biết rõ dấu triện Sắc mệnh chi bảo được đúc vào năm 1435. Nhưng trên  các văn bản thế kỷ 15 có đóng dấu này còn lại đến nay thực là hiếm.Trên đạo sắc phong cho Phụ chính Tham tướng Phạm Như Tăng làm Trung quân Đô thống tạm quyền lãnh ấn tiên phong chỉ huy 10 đạo binh tiến đánh Chiêm Thành có đóng dấu Sắc mệnh chi bảo trên dòng niên hiệu Hồng Đức 2 (1471) .(Nguyễn Công Việt,2005, tr. 111) .

Dưới thời Mạc (1527-1592), theo Nguyễn Công Việt, những vấn đề đại sự quốc gia đựơc ban bố ra quốc dân thiên hạ như chiếu, chỉ, cáo, sắc vv…nhà Mạc vẫn dùng theo cách của nhà Lê Sơ, các văn bản này đều được đóng dấu Kim bảo Sắc mệnh chi bảo của nhà Lê.  Sắc phong thần ở thời Mạc còn lại đến nay cũng rất ít. Tại đền Quang Lãng, xã Thụy Hải, huyện Kiến Thụy, tỉnh Thái Bình còn 3 đạo sắc phong thần vào ngày 5 tháng 12, năm đầu niên hiệu Minh Đức (1527); ngày 10 tháng 6, năm đầu niên hiệu Quảng Hòa (1540); ngày 28 tháng 4, năm đầu niên hiệu Cảnh Lịch (1548). Cũng như đạo sắc phong thần ở đình Tử Dương , huyện Thường Tín, Hà Nội, ngày 6 tháng 11, năm Sùng Khang 9 (1576). Các đạo sắc này đều đóng dấu Sắc mệnh chi bảo.
Dưới thời Lê Trung hưng (1533-1788), trên các đạo sắc phong thần chỉ duy nhất dùng dấu Sắc mệnh chi bảo , là Kim bảo đúc từ thời Lê Sơ. Các bản sắc phong từ niên hiệu Vĩnh Tộ 8 (1626) cho đến niên hiệu Vĩnh Khánh 2 (1730) in trong sách của Nguyễn Công Việt đều thấy dấu triện này. (Nguyễn Công Việt, 2005,tr.203-206).

Chúng tôi thấy 3  đạo sắc phong thần tại Miếu Cầu Vương,  ngày 8 tháng 8, năm Cảnh Hưng 28 (1767); ngày16 tháng 5 và ngày 26 tháng 7, năm Cảnh Hưng 44 (1783)  đều đóng dấu Sắc mệnh chi bảo. Dấu son trên các đạo sắc thời Lê Trung hưng đều giống nhau về kiểu chữ và kích thước chứng tỏ được đóng từ một Kim bảo. Cũng thật tiếc là dấu Kim bảo ấy nay không còn.
Cho đến nay chỉ may mắn còn lại Kim bảo 敕 命 之 寶 Sắc Mệnh Chi Bảo của triều Nguyễn ,hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, LSb.34447 (Ảnh 2)


nh 2: Kim bảo Sắc mệnh chi bảo đang lưu giữ và trưng bầy tại Bảo tàng lịch sử quốc gia.
                                                                                      (BẢO VẬT QUỐC GIA)
Kim Bảo: Sắc mệnh chi bảo, cao 11,0cm; cạnh 14,0cm x 14,0cm, dầy 2,5cm. Kim bảo có 2 cấp hình vuông, quai rồng cuộn ngồi xổm, đầu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xoè 9 dải hình ngọn lửa, chân rồng 5 móng. Lưng kim bảo khắc 2 dòng chữ Hán:
– Bên trái: 十 歲 皇 金 重 二 百 二 十 三 両 六 錢 Thập tuế hoàng kim, trọng nhị bách nhị thập tam lượng lục tiền. (Vàng 10 tuổi, nặng 223 lạng 6 tiền, [khoảng 8,3kg]) .
– Bên phải: 明 命 八 年 十 月 吉 日 造 Minh Mệnh bát niên thập nguyệt cát nhật tạo. (Đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mệnh 8, 1827).
Mặt Kim bảo đúc nổi 4 chữ Triện trong khung diềm: 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo. (Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân & Nguyễn Công Việt, 2009, tr.23,126-127). Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, có đoạn chép lời Dụ của vua Minh Mệnh năm 1828: “Từ trước đến nay phong tặng cho các thần kỳ cùng văn võ quan phẩm, thì đều dùng ấn 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo. Nay mới đúc ấn 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo, từ nay phàm có ban cấp cho văn võ, phong tặng cho thần dân đều cho dùng.” ( Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 1993,tr. 34).

3. Dấu Kim bảo 封 贈 之 寶 Phong Tặng Chi Bảo
Theo tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Kim bảo 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo, LSb.35184, được đúc bằng bạc , cao 7,0cm; cạnh vuông 10,88cm x 10,88cm,  dầy 2,42cm (Ảnh 3) .Quai hình tượng rồng tư thế đang chạy, đầu ngẩng, lưng uốn, 4 chân chùng, đuôi hình dải mây. Mặt trên Kim bảo  hình vuông, 4 mặt bên vát hình thang, phía dưới hình chữ nhật. Lưng kim bảo khắc 2 dòng chữ Hán:

Ảnh 3: Kim bảo Phong tặng chi bảo đang lưu giữ và trưng bầy tại Bảo tàng lịch sử quốc gia.
– Bên trái: 封 贈 之 寶 重 八 笏 四 両 Phong tặng chi bảo, trọng bát hốt tứ lạng. (Ấn phong tặng chi bảo, nặng 8 thoi 4 lạng).
– Bên phải: 壬 戌 春 正月吉日監 造 Nhâm Tuất xuân , chính nguyệt cát nhật, Giám tạo. (Giám tạo vào ngày lành tháng Giêng mùa xuân năm Nhâm Tuất, 1802).
Mặt kim bảo đúc nổi 4 chữ Triện 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo, kiểu chữ cùng đặc điểm 3 chiếc Kim bảo khác như Chế cáo chi bảo, Sắc chính vạn dân chi bảo, Trị lịch minh thời chi bảo.( Nguyễn Đình Chiến, 2015,tr. 35-36).
Ấn này dùng đóng trên các đạo sắc, cáo, phong tặng cho các quan văn võ, công thần hay nhân thần . Như vậy, với thông tin này cho biết, các đạo sắc phong thần của triều Nguyễn, kể từ năm 1802 đến 1827, khoảng 25 năm, đều dùng dấu triện Phong tặng chi bảo.
Theo Nguyễn Công Việt, trên đạo sắc phong thần ở đình thôn Đoài, xã Phù Xá, huyện Kim Anh, tỉnh Bắc Ninh có đóng dấu Phong tặng chi bảo ở dòng cuối Minh Mệnh nhị niên thất nguyệt nhị thập nhất nhật. Nghĩa là vào ngày 21 tháng 7 (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh,1821.(Nguyễn Công Việt, 2005,tr.309).
Cùng với đạo sắc phong thần ở Miếu Cầu Vương, ngày 20 tháng 7, (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh, 1821, có đóng dấu Kim bảo Phong tặng chi bảo là các minh chứng trùng khớp giữa thư tịch và thực tế (Ảnh 4).
Ảnh 4: Dấu Phong tặng chi bảo trên sắc phong thần Miếu Cầu Vương, ngày 21 tháng 7(Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh (1821).
 
Tóm lại, qua các triều vua , từ  thời Lê Sơ đến thời Nguyễn , chúng ta thấy trên các đạo sắc phong thần đã sử dụng những loại dấu triện Kim bảo như sau:
– Thời Lê Sơ (1428-1527) , năm 1435, đúc kim bảo Sắc mệnh chi bảo,cạnh mặt ấn 11,5cm x 11,5cm.
-Thời Mạc (1527-1592), sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo trên.
– Thời Lê Trung hưng (1533-1788), sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo trên.
– Thời Tây Sơn (1788-1802), đúc mới và sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo khác cùng dấu Tiên nhu chi bảo.
– Thời Nguyễn (1802-1945), từ năm 1802-1827 sử dụng dấu Phong tặng chi bảo còn từ 1828-1945, sử dụng dấu Sắc Mệnh chi bảo.
    Việc nghiên cứu các dấu triện Kim bảo này, không chỉ làm rõ về những loại dấu triện đóng trên các đạo sắc phong thần từ 1428 đến 1945 mà còn có ý nghĩa với công tác giám định sắc phong thật và giả trong tình hình hiện

TS. Nguyễn Đình Chiến 
Nguyên PGĐ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Đình Chiến,2015,  Giải mã minh văn trên các bảo vật triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
2.Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân & Nguyễn Công Việt, 2009, Kim ngọc bảo tỷ của Hoàng đế và Vương hậu triều Nguyễn Việt Nam.BTLSVN xb.
3.Nguyễn Công Việt, 2005, Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX. NXB KHXH Hà Nội.
Đại Việt sử ký toàn thư,1972, t. 3 ,Nxb KHXH Hà Nội.
4.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 1993, Nxb .Thuận Hóa, Huế.
5.Hoàng Xuân Hãn ,1952, La Sơn phu tử, Nxb Minh Tân, Paris.
6. Nguồn: luutruquocgia1.org.vn


spacer

Về sắc phong đền thờ vị thần trống đồng ở nước ta

Đền Đồng Cổ là đền thờ vị thần Trống Đồng có công lao với nước. Đền Đồng Cổ được vua Lý Thái Tông cho xây dựng vào năm 1028 tại thôn Nam, Đông Xã, Yên Thái (nay là số 353 phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội), đến nay đã được gần 1000 năm. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, qua nhiều thời đại mà đền vẫn sừng sững nguy nga. Trải qua nhiều thời kỳ đều được phong tặng sắc phong, được tôn sùng. Đền mang giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện lòng trung thành và yêu nước của người Việt Nam.

Sân trước đền Đồng Cổ, nguồn sưu tầm: vanhien.vn

Đền thờ thần Trống Đồng, đền gắn với một truyền thuyết lịch sử. Sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi rằng vào năm 1028 thời vua Lý Thái Tông: “Phong tước cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề. Trước đây, một hôm trước khi ba vương làm phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm. Đến đây xuống chiếu giao cho ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung mong thần minh giết chết”. Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hằng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ, chuyển sang ngày mồng 4 tháng 4”[1]. Hiện nay đền còn lưu giữ được 14 đạo sắc phong cổ: 4 đạo thời Lê, 6 đạo thời Tây Sơn, 4 đạo thời Nguyễn. Số sắc phong này hiện được lưu trữ và bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, nhận thấy đây là số sắc phong quý nên chúng tôi xin giới thiệu một số đạo sắc tiêu biểu.

Sắc phong 1:



 Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
Phiên âm:
Sắc Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Đại Vương, sơn xuyên chung tú, kì điện phân phù, liễm ngũ phúc dĩ tích dân xích tử đồng đăng xuân thọ, hiệp bách linh nhi hộ quốc, hồng cơ vĩnh điện Thái Bàn, kí chiêu đốc bật chi công, hạp cử bao phong chi điển vi. Tự vương tiến phong vương vị lâm cư chính phủ, lễ hữu đăng trật, ứng gia phong mĩ tự nhị tự, khả gia phong: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Đại Vương. Cố sắc!
Cảnh Hưng tứ thập tứ niên ngũ nguyệt thập lục nhật.

Dịch nghĩa:
Sắc cho Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận  Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Đại Vương, núi sông chung đúc tươi đẹp, cõi đất phiên trấn, thu ngũ phúc để ban cho con dân cùng lên vực thọ, hòa hợp với bách linh mà che chở cho đất nước, cơ đồ mãi mãi vững như điện Thái Bàn, đã sáng rõ công lao to lớn lại hợp được bao phong làm (mặc tướng). Trẫm tiến phong vương vị đến ở chính phủ, theo lễ thăng bậc, gia phong mĩ tự hai chữ. Xứng đáng được gia phong là: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Đại Vương. Vậy nên sắc!
Ngày 16 tháng 5 năm Cảnh Hưng 44 (1783).

 Sắc phong 2:



Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
 Phiên âm:
Sắc Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ  Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Đại Vương, sơn xuyên chung tú, kì điện phân phù, liễm ngũ khánh dĩ tích dân xích tử đồng đăng thọ vực, hiệp bách linh nhi hộ quốc hồng cơ, vĩnh điện Thái Sơn, kí chiêu bảo tá chi công, hạp cử bao phong chi điển vi mặc tướng. Quốc gia phi xiển, hồng đồ quang ứng tuấn mệnh, lễ đương đăng trật, ứng gia phong mĩ tự nhị tự: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ  Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Hồng Du Vĩ Liệt Đại Vương. Cố Sắc!
Quang Trung Tam niên thập nguyệt thập nhị nhật.

Dịch nghĩa:
Sắc cho Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Đại Vương, núi sông chung đúc tươi đẹp, cõi đất phiên trấn, thu ngũ khánh  để ban cho con dân cùng lên đài xuân vực thọ, hòa hợp với bách linh mà che chở cho đất nước, cơ đồ mãi mãi vững như Thái Sơn, đã sáng rõ công lao che chở lại hợp được bao phong làm mặc tướng. Quốc gia mở mang rộng lớn, cơ đồ rạng ứng mệnh to, theo lễ thăng bậc, được gia phong mĩ tự 2 chữ: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hữu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Hồng Du Vĩ Liệt Đại Vương. Vậy nên sắc!
Ngày 12 tháng 10 năm  Quang Trung 3 (1790).

Sắc phong 3:

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
 Phiên âm:
Sắc Bản Thổ Chi Thần, nguyên tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Chi Thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh miến niệm thần hưu, khả gia tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Đôn Ngưng Chi Thần, nhưng chuẩn Vĩnh Thuận huyện, An Thái phường y cựu phụng sự. Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Tự Đức thập niên thập nguyệt sơ tam nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Bản Thổ Chi Thần, nguyên tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Chi Thần, giúp nước che chở dân, tỏ rõ linh ứng. Nay trẫm nối mệnh lớn nghĩ đến những điều tốt đẹp của thần, xứng đáng được gia tặng là Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Đôn Ngưng Chi Thần, chuẩn cho phường An Thái, huyện Vĩnh Thuận phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ và che chở cho dân của ta. Kính thay!
Ngày 3 tháng 10 năm Tự Đức 10 (1857).
Thay lời kết:
Đền Đồng Cổ là đền thiêng liêng, thờ vị thần Trống Đồng có công lao với nước. Đền được xây dựng vào thời Lý, đến nay đã được gần 1000 năm. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, qua nhiều thời đại mà đền vẫn sừng sững nguy nga. Trải qua nhiều thời kỳ đều được phong tặng sắc phong, được tôn sùng. Đền mang giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện lòng trung thành và yêu nước của người Việt Nam. Đến nay hàng năm vẫn có rất nhiều nhân dân thập phương đến chiêm bái, hương khói không dứt, thể hiện lòng tri ân và tôn kính đối với vị thần có công với đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1.Đại Việt sử kí Toàn thư; Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb Văn Học, tái bản năm 2017.
2.Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, 14 đạo sắc phong đền Đồng Cổ.

LÊ THÔNG
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I                                                                                           
[1] Đại Việt sử kí Toàn thư. Nxb Văn Học. Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch, trang 154.
spacer
do