Nhiều bằng chứng xác thực của giáo sĩ Julien Faulet chứng minh Bá Đa Lộc không phải là người đã cứu Nguyễn Ánh thoát khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ.
Hình minh họa vua Gia Long trên trang bìa tiểu thuyết lịch sử Gia Long phục quốc của Tân Dân Tử (1875 - 1955)
Ảnh: Tư liệu
Julien Faulet sinh ngày 21.11.1741 ở Guilliers (Pháp), đi truyền
giáo từ ngày 29.11.1773, được chuyển đến Cao Miên tháng 6.1775, làm trợ
tá cho giám mục Bá Đa Lộc. Trong suốt thời gian truyền giáo ở khu vực
này, ông và giáo dân sống trong tình trạng cực kỳ khốn khổ vì chiến
tranh và cướp bóc, cái chết luôn luôn gần kề. Cuối cùng ông bị bệnh tâm
thần, phải trở về Bretagne, Pháp.
Giáo sĩ Faulet viết nhiều thư mô tả tình hình chiến sự, giáo xứ và
giáo dân ở Cao Miên và Hà Tiên, trong đó có hai tài liệu quan trọng: 1/
Bản ký sự dài, thuật việc giám mục Bá Đa Lộc phải tẩu thoát khỏi tu viện
Cay-Quao (tu viện do giám mục xây dựng ở phía nam Hà Tiên, dưới sự bảo
trợ của quan trấn thủ Mạc Thiên Tứ). Sau đó, qua những gì được ghi trong
Sử Ký Đại Nam Việt, thì lại biết thêm rằng: giám mục chạy sang Cao
Miên. Tóm lại: Bá Đa Lộc bỏ Hà Tiên ngày 29.7.1777 chạy sang Cao Miên.
Như vậy, giám mục không thể nào “cứu” Nguyễn Ánh trong tháng 9 - 10.1777
được.
2/ Trong một bức thư khác, giáo sĩ Faulet cho biết ai cứu thoát
Nguyễn Ánh tháng 9 - 10.1777. Đó là lá thư ông viết ở Cao Miên ngày
25.4.1780, gửi giáo sĩ Descouvrières, bề trên của ông, kể tình trạng cực
kỳ khốn khổ của họ đạo ở Hà Tiên, giữa cướp bóc và giặc giã, đoạn chót
có câu: “Chính cha Paul (Paul Nghị) đã nuôi ăn và giấu ông vua trẻ trong
chiếc thuyền nhỏ của ông và báo cho Đức thánh cha (Bá Đa Lộc) biết”. Lá
thư này là một tư liệu quý, bởi vì linh mục Faulet lúc đó ở Hà Tiên, có
lẽ ông đang ở trong nhà giám mục Bá Đa Lộc, cho nên biết rõ chuyện cha
Nghị giấu Nguyễn Ánh trong thuyền của mình.
Trang bìa tiểu thuyết lịch sử Gia Long tẩu quốc của Tân Dân Tử mô tả về quá trình trốn chạy của Nguyễn Ánh
Về người mẹ của Nguyễn Ánh, Sử Ký Đại Nam Việt viết như sau: “Con
thứ hai của ông Vũ Vương (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), tên là Chưởng Vũ
(Nguyễn Phúc Luân), chẳng khác tính cha là bao nhiêu (tức là cũng ăn
chơi như cha). Trong các vợ ông Nguyễn Phúc Luân có một con hát sinh
đặng nhiều con trai; trong những con trai ấy, thì con thứ hai tên là Đức
Hoàng Nguyễn Ánh, có danh tiếng, vì đến sau được nối dòng cùng tôn lên
làm vua, gọi là Gia Long”.
Sử Ký Đại Nam Việt viết trong đoạn Nguyễn Ánh trốn giặc như sau:
“Ấy vậy mà tông tộc nhà Nguyễn đã gần tuyệt, còn lại một ông Nguyễn Ánh
cùng ba anh em mà thôi. Chẳng khỏi bao lâu thì ba ông này lại phải sự
khốn khó mà chết hết. Vậy còn một ông Nguyễn Ánh mới lên mười bốn hay
mười lăm tuổi mà thôi. Ông ấy tuy khỏi chết, song đã phải túng cực lắm
vì chẳng còn của gì, chẳng còn ai giúp cũng chẳng biết tin ai nữa. May
còn một đứa nhà trò có lòng trung tín, ban đêm đã kiếm đặng một chiếc
thuyền nhỏ, thì hai thầy tớ liền đem nhau tìm nơi mà ẩn trong rừng lau
lách. Tình cờ lại gặp thuyền ông Phaolồ (Paul Nghị), là thầy cả bổn
quốc, cũng đang chạy giặc. Bấy giờ ông Nguyễn Ánh, tuy chưa quen biết
thầy Phaolồ, song đã biết là thầy cả bổn quốc, cũng biết là thầy đạo,
thì xưng danh mình ra, xin thầy Phaolồ cứu. Thầy Phaolồ liền chịu và đem
qua giấu trong thuyền mình và chèo thẳng qua Hà Tiên, mà giấu trong nhà
đức thầy Vêrô (Bá Đa Lộc). Khi ấy đức thầy Vêrô đã sang bên Cao Miên,
cho nên thầy cả Phaolồ vội vàng gửi tin cho người biết sự ấy cho kịp.
Ông Phaolồ có ý giấu ông Nguyễn Ánh trong nhà đức thầy Vêrô cho kỹ, nên
chẳng cho ai biết. Song cũng khó lắm, vì quân Tây Sơn đã biết tỏ ông ấy
đã trốn sang Hà Tiên, nên đã truyền tìm bắt người mà nộp. Vậy qua một
tháng thì chẳng còn lẽ nào mà giấu trong nhà nữa, nên ông Phaolồ phải
đưa ông Nguyễn Ánh lên rừng nơi vắng vẻ. Đoạn hoặc ông Phaolồ, hoặc thầy
giảng kia, tên là ông Toán, thỉnh thoảng lén chở đồ ăn đến cho mà thôi.
Vậy ông Phaolồ chịu khó mà liệu cách khôn ngoan thể ấy đặng hai ba
tháng, thì có công với ông Nguyễn Ánh cả thể lắm. Vì chưng nếu chẳng có
thầy cả ấy, thì ông Nguyễn Ánh phải bắt chẳng khỏi. Khi ấy quan phủ kia
tên là Nhất Trịnh, nghe tin ông Nguyễn Ánh hãy còn, thì lấy một ít quân
mạnh bạo đi tìm mà giết. Quân Tây Sơn canh giữ đồn kia áp xứ Đồng Nai và
Cao Miên, ra sức tìm cho đặng ông Nguyễn Ánh. Dần dần thì nó biết đặng
ông ấy còn ẩn mình trong thuyền ông Phaolồ trong Rạch Giá. Cũng một khi
ấy đức thầy Vêrô ở Cao Miên mà về, tìm được ông Nguyễn Ánh; người lại
đem một Langsa, tên là Gioang (Jean) có nghề võ cùng bạo dạn gan và có
tài đánh giặc lắm”.
Theo tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, có ba người giúp Nguyễn Ánh thoát
nạn: Một đứa nhỏ nhà trò có lòng trung tín, tức là một tiểu đồng con nhà
hát, liên hệ với mẹ Nguyễn Ánh, trung tín theo hầu, chính cậu nhỏ nhà
trò này đã tìm thuyền cứu chủ, giấu vào lau lách. Hồ Văn Nghị, hay Paul
Nghị, thầy giảng, là người thân tín của Bá Đa Lộc, đã cứu Nguyễn Ánh
giấu vào thuyền mình, chở về nhà Bá Đa Lộc ở Hà Tiên và báo tin cho Bá
Đa Lộc biết, lúc ấy vị giám mục đang ở Cao Miên. Ít lâu sau sợ bị lộ,
cha Nghị đem Nguyễn Ánh trốn vào rừng. Thầy giảng Toán, cũng liều mình
đem đồ ăn đến cho Nguyễn Ánh.
Thụy Khuê (Trích từ cuốn Vua Gia long và người Pháp do NXB Hồng đước và Saigon nooks an hang thang 1/2017)