TRẦN VĂN ĐƯỜNG
Biên dịch
THẤU ĐỊA
QUYẾT ĐOÁN
KIẾT HUNG
LỜI MỞ ĐẦU
Phong thủy là niềm tin trong cuộc sống của nhiều người
để giải tỏa những lo âu do thị phi bàn bạc. Có thể không cần dùng hai từ phong
thủy để xác định một quan cảnh sống hợp lý, hài hòa, thỏa mái; từ cách nhìn
không vướng mắt, đến chỗ nằm chỗ ngồi an tâm đã là phong thủy trong cuộc sống.
Tuy nhiên chiều sâu của phong thủy được nhiều tiền bối
gạn lọc, tích lũy lại thành sách vở cho đời là vấn đề cần giải mã đúng, ứng
dụng có khoa học, tất nhiên sẽ tránh trước được những thiếu sót không đáng có.
Mỗi tiền bối soạn một sách dựa trên cơ bản của âm dương dịch lý biến hóa qua 64
phép chập của tám quẻ theo hậu thiên
hoặc phối hợp âm dương trên tiên thiên bát quái để định kiết hung. Sở dĩ mỗi vị
thầy dụng một sách vì nhìn nhận của thầy nằm trong tư duy có thể có phần bảo
thủ của thầy. Điều quan trọng là kết hợp tại đâu cho khoa học, kiểm nghiệm thực
tế từ đâu để kết luận nên làm hoặc nên tránh.
Lòng không yên cuộc sống sẽ chưa yên, do đó ta đi tìm
nơi nương tựa mà cơ bản là điều người xưa đã xác nhận.
Thấu địa lục thập long quyết đoán cát hung là tài liệu
viết bằng chữ Hán của Đài Loan, một phần trong một tác phẩm phong thủy ấn bản
năm 1946. Đây là cơ bản của khoa phân châm lý khí, không thể thiếu nhưng chỉ
một thấu địa lục thập long là thiếu để tìm cát sự. Hai yếu tố khác cần có để
hội đủ trong phạm vi xác định âm phần không bao gồm hung niên, trạch nhật. Thứ
nhất là định đúng la bàn khi mỗi năm địa từ trường đẩy lệch kim nam châm theo
tuần dương, tuần âm có biên độ rộng đến 23 độ trong khi chỉ cần 5 độ là đã có
thể rơi vào vị trí hung hướng, sát sơn. Thứ hai là kết hợp khoa loan đầu định
cuộc, nếu lý khí đạt vị thủ tọa túc hướng tốt nhưng không thể để đầu xoay vào
hướng thấp hoặc trực xung thủy xạ. Không ai là nhà nghiên cứu phong thủy cả,
tất cả chỉ là người tìm tư liệu - tổng hợp - ứng dụng, hơn thua là vấn đề biết
loại bỏ những thủ thuật đưa thiên hạ vào chốn mê hoặc và biết vận dụng những
phát minh chuẩn xác hiện đại. Đừng vội đề cao mình là thầy giỏi, quan trọng là
đủ sách để ứng dụng chưa chứ không phải lợi khẩu nói hay là giỏi, không rõ thì
không nên làm đừng đổ hết phần họa phước vào phước chủ,
Mỗi vị trí, mỗi hướng tốt xấu chưa có thầy nào nhìn
nỗi vũ trụ vận hành tạo ra ảnh hưởng ấy, nhưng tất cả như một bài toán (dịch
lý) có lời giải sẵn, sự xung khắc hòa hợp dựa trên thể dụng của vũ trụ trước
mắt ta. Tóm lại ta không cần biết số p do đâu và bao giờ
là hữu hạn mà ta là người thừa hưởng, ứng dụng phong thủy cũng giống vậy.
Muốn sử dụng được Thấu địa lục thập long quyết đoán
cát hung trước hết phải biết xem la bàn. Sở dĩ tôi giới thiệu đến thân hữu tập
sách nầy vì có những khuôn khổ ngày nay đã khép việc chôn cất theo quy hoạch,
việc của chúng ta là tìm tránh những xung phạm theo sách vở chứ không còn quyền
định cuộc trong một quần thể nghĩa địa quy hoạch. Như vậy ta có thể chấp nhận
với thực tế để chế lại trong phạm vi còn được phép.
Hy vọng tập sách nầy tuy ít nhưng góp phần lớn trong
việc tạo phước cho nhiều nhà, giải tỏa được một phần lo âu khi người thân nằm
xuống nơi lòng đất chờ được hóa thân.
Thành
phố HCM, mùa thu năm Quý Tỵ (2013)
Trần
Văn Đường
Tranvanduong.sg@gmail.com
HƯỚNG DẪN SƠ
LƯỢC CÁCH SỬ DỤNG LA KINH
La kinh
Trong các la kinh dùng trong địa lý phong thủy đều
viết bằng chữ Hán, một mặt sản phẩm nầy đa phần do Đài Loan sản xuất, mặt khác
do người Hoa dựa các phiên bản sản xuất theo; để có thể hiểu và thực hiện được
hãy theo các cách sau:
- Vòng thứ ba kể từ trong ra biên có các chi: Tý 子, sửu 丑, dần 寅, mão 卯, thìn 辰, tỵ 巳, ngọ 午, mùi 未, thân 申, dậu 酉, tuất 戌 và hợi 亥 là chữ nằm tại vòng thứ ba nhưng
biểu thị cho nhóm can vòng thứ tư, vị trí trên la kinh ngay 3 can giữa của nhóm
5 can vòng thứ tư.
- Vòng thứ tư có các can: giáp 甲, ất 乙, bính 丙, đinh 丁, mậu 戊, kỷ 己, canh 庚, tân 辛, nhâm 壬, quí 癸; mỗi cụm có 5 can theo chi vòng
thứ ba.
- Các khảng trống vòng thứ tư là
không vong và vạch phân cách giữa các can đều phạm tuyệt đối không dùng.
- Khi xem hãy chọn một can tốt
trên la kinh phù hợp với qui hoạch huyệt mộ, định hướng Bắc - Nam đúng với lệch
từ hoặc đúng với thiên bàn tức la bàn định vị vệ tinh. Không theo kim nam châm
trên là bàn để chuyển sẽ sai lệch nếu không biết độ lệch từ nằm tại vị trí nào.
Các câu trả lời được đánh giá
trên Thấu địa long!
THẤU ĐỊA LỤC
THẬP LONG
KIẾT HUNG QUYẾT ĐOÁN
1. GIÁP TÝ
Khí
thất Nhâm long tam Sửu vi tiểu thác.Giáp Tý xung quan xuất hoàng thủng, phong
hàn cổ lại, nữ á nam lao. Nhược kiến Bính thượng thuỷ, quan nội hửu nê tương,
khẩu thiệt quan phi.Tỵ - Dậu - Sửu niên ứng.
(Sai thác không vong)
2. BÍNH TÝ *
Khí
chánh Nhâm long.Đại kiết xương, thiêm nhân tấn khẩu trí điền trang, phú quý
song toàn định hửu ứng, chư sự vưu cát tường. Nhược kiến Mùi, Thân thuỷ, quan nội
(Châu Bửu)
3. MẬU TÝ
Khí
ngũ Tý ngũ Nhâm thị hoả khanh.Xuất nhân phong lưu bại nhân luân,bất duy mộc căn
xuyên quan nội bạch nghị trùng thử sanh.Nhược kiến Tốn phương thủy, cộng nội nê
thuỷ nhị tam phân. Dần-ngọ-Tuất, Thân-Tý-Thìn niên ứng.
(Hoả
Khanh)
4. CANH TÝ *
Khí
chánh Tý long.Phú quý song toàn phước du long, nhân tài lục súc
thạnh.Thân-Tý-Thìn niên phong. Nhược kiến Tốn phương thuỷ, quan nội nê nan
dung.
(Châu Bửu)
5. NHÂM TÝ
Khí
thất Tý tam Quý thị dương nhận.Xuất nhân thiếu vong chiêu tặc xâm,tổn thê khắc
tử đa hoạ sự. Thân-Tý-Thìn niên ứng, hựu kiến Canh -Tân thủy, quan nội tác xanh
thuyền.
(Sai thác không
vong)
6. ẤT SỬU
Khí
thất Quý tam Tý.Vượng nhân đinh,thực túc y phong phú quý cảnh, thượng kiến Ngo
- Đinh thuỷ, quan nội lạm nê ngũ thốn thâm. Tỵ –Dậu -Sửu niên ứng.
(Sai thác không vong)
7. ĐINH SỬU *
Khí
chánh Quý long.Xuất nhân thông minh, hựu linh lung, phú quý du trường cửu, chư
sự thời ung. Nhược kiến Mùi phương thuỷ, quan nội nhược đường trung.
Thân-Tý-Thìn niên ứng.
(Châu
Bửu)
8. KỶ SỬU
Khí
ngũ Sửu Quý thị hắc phong. Nữ yểu nam lao bách sự hung, phong tật tối khả thâm,
bại tuyệt thật khả thống. Hựu kiến Hợi phương thuỷ, tỉnh hửu thuỷ nghị trùng.
Dần – Ngo - Tuất niên ứng. Thuỷ khốn hoả khanh trung.
(Hoả Khanh)
9. TÂN SỬU*
Khí
chánh Sủu long. Tam thập phú quý đại hưng long, nhân đại vượng chư sự cát, từ
cung hiếu hửu mại phàm dung. Nhược kiến Dần thượng thủy, quan nhập nê trương
trung.
(Châu Bửu)
10.
QUÝ SỬU
Khí
thất Sửu tam Cấn. Phạm cô hư, táng hậu quan tai thật khả tất, chư sự bất xứng
ý, chúng phòng giai bất toại, khẩu thiệt thới tài đa bại tuyệt. Sửu - Mẹo - Mùi
niên kì. Hựu kiến Càn phương thuỷ, thọ căn xuyên quan định bất ngưng.
(Sai thác không vong)
11.
BÍNH DẦN
Khí
thất Cấn tam Sửu.Huyệt bình thường, Túng hoành phát phước bất cửu trường.Dần – Ngọ
- Tuất niên ứng. Chư sự giai cát tường. Nhược
kiến Sửu phương thuỷ, quan lan nhập nê trương.
(Sai thác không vong)
12.
MẬU DẦN*
Khí
chánh Cấn long. Phú quý vinh hoa đại thế long, Thân – Ty - Thìn đăng khoa ứng,
chỉ phạ Mão thuỷ xung, quan định hửu hung.
(Châu Bửu)
13.
CANH DẦN
Khí
ngũ Cấn ngũ Dần.Thị Cô hư, hoả khanh hắc phong khong vong đích, táng hậu tam
lục cửu niên phong tật kiến, nhơn luân bại tuyệt tối thậm đề. Hựu kiến Thân
phương thuỷ, tỉnh nội hửu thuỷ nê.
(Hoả khanh)
14.
NHÂM DẦN*
Khí
chánh Dần long.Phú quýnhân tài phong, điền nghiệp quảng trí đa phước trạch.
Tỵ-Dậu-Sửu niên phùng. Thượng kien Ngọ phương thuỷ, quan tại thuỷ nê trung.
(Châu Bửu)
15.
GIÁP DẦN
Khí
thất Dần tam Giáp. Chủ bình ổn, nhất đại hưng phát hảo, hậu thế đa căn bịnh.
Nhược kiến khôn phương thuy, quan trung bạch nghị phanh.
(Sai thác không vong)
16.
ĐINH MÃO
Khí
thất Gíap tam Dần. Nhân bình thường, tửu sắc phiêu lưu lạc nọa dương. Dần – Ngo
- Tuất niên ứng, phương kị khắc thuỷ đa tương.
(Sai thác không vong)
17.
KỶ MÃO*
Chánh
Giáp long. Nhân tài lưỡng phát y thực phong. Nhược kiến Tốn phương thủy, lão
thử xuyên quan trung. Thân – Ty - Thìn niên ứng bất sảng, nhân tử ai thân mạc
hồ hung.
( Châu Bửu )
18.
TÂN MÃO
Khí
ngũ Giáp ngũ Mão, thị hắc phong, hoả khanh, bại tuyệt. Xuất đạo ông, tam phòng
tiêu tuyệt hậu cập chúng. quan tai điệp kiến sự đa hung. Nhược kiến Canh Thân
thủy lai hiện lạm nê nhất xích cửu quan trung. Thử phần nhược hoàn bất di cải,
nhân tài bại tuyệt vĩnh vô tung.
(
Hoả khanh )
19.
QUÝ MÃO*
Khí
chánh Mẹo long. Phú quý song toàn xuất nhân thông, điền trang quảng tấn đa mỹ
cảnh, nhân an vật phụ bá sự thông. Nhược kiến Tỵ phương thuỷ, mộc căn xuyên
quan định bất dung. Tỵ – Dậu - Sửu niên ứng.
( Châu Bửu )
20.
ẤT MÃO
Khí
tam At thất Mão. Cô quả, bại tuyệt, đa thọ yểu. hậu đợi yếu tha tịnh khước
cước, túng nhiên hửu nhân diệc nạn bảo. Hưu kiến Tuất phương thuỷ, tỉnh nội nê
thuỷ dưỡng ngư hảo.
( Sai thác không vong )
21.
MẬU THÌN
Khí
thất At tam Mão. Phú quý thọ trường bạ danh tiêu, thượng kiến Thân-Dậu thủy
quan nội hửu nghị trùng. Tỵ – dậu - Sửu niên ứng.
( Sai thác không vong )
22.
CANH THÌN*
Khí
At long. Xuất nhân phát phước vĩnh cùng, thất đợi phú quý, xuất nhân tú siêu
quần quan thế hùng. Hợi – Mẹo - Mùi niên kiến, chỉ phạ Đinh thuỷ sanh hoả hung
( Châu Bửu )
23.
NHÂM THÌN
Khí
ngũ Thìn ngũ At,thị Hắc phong, hoả khanh, bại tuyệt tối túc thống, khẩu thiệt
quan phi thiếu vong thậm, li hương hoà thượng vĩnh biệt tung. Nhược kiến Tuất
phương thuỷ, quan nội nê nhược nung.
( Hoả khanh )
24.
GIÁP
THÌN*
Khí
chánh Thìn long. Thất thập ngũ niên phú quý phong. Nhược kiến Tý-Quý thuỷ, tỉnh
nội nê thuỷ công.
( Châu Bửu )
25.
BÍNH THÌN
Khí
thất Thìn tamTốn. Chủ ngoại phát phúc, y thực bình ổn, chiêu chuế nhập
phòng.hậu đợi nhơn bại tuyệt. Thân-Tý-Thìn niên ứng. Nhược kiến Dần-Thân thuỷ,
mộc căn xuyên quan, vong nhân bất an.
( Sai thác không vong )
26.
KỶ TỴ
Khí
thất Tốn tam Thìn. Phú quý quân bình. Hợi-Mẹo-Mùi niên ứng. Nhược kiến Càn
thượng thuỷ nê cốt nhập nê khanh.
(
Sai thác không vong )
27.
TÂN TỴ*
Khí
chánh Tốn long. Vinh hoa phú quy định quan tông. Tỵ-Dậu-Sửu niên ứng bất sảng,
chỉ phạ Ngọ-Đinh thuỷ xung.
( Châu
Bửu )
28.
QUÝ TỴ
Khí
ngũ Tỵ ngũ Tốn, thị Hắc phong, hoả khanh bại tuyệt bách sự hung, táng hậu ngũ
niên tịnh thất tải, lão đinh lục súc tải nhược phong. Hựu kiến Sửu phương thuỷ,
lão thử quan mộc tác xuyên công.
( Hoả khanh )
29. ẤT TỴ*
Khí
chánh Tỵ long. Vinh hoa phú quý phước tối long.Dần-Ngọ-Tuất niên ứng hữu nhiệm.
Quý thuỷ lai xung quan nê phong.
(
Bửu Châu )
30.ĐINH TỴ
Khí thất Tỵ tam Bính. Tam niên thất tải khẩu thiệt
tịnh. Nhược kiến Mão thủy lai quan mộc, nội ngoại thuỷ nê thâm.
( Sai thác không vong )
31. CANH
NGỌ
Khí thất Bính tam Tỵ. Nhân hưng tài vượng hữu kỳ nhựt,
thế đợi tấn điền đa cát khánh. Thân-Tý-Thìn Dần-Ngọ-Tuất niên, sỉ kỵ kiến Giáp
- Dần thuỷ, nê thuỷ tổn đinh tự.
( Sai thác không vong )
32. NHÂM
NGỌ*
Chánh khí
Bính long. Phú quý song toàn, xuất anh hùng, tam thập thất đợi nhân đinh vượng,
cảnh tinh khánh vân cát phong, Kị kiếnThân
phương thủy, tỉnh nội nê tương hung.
( Châu Bửu )
33. GIÁP
NGỌ
Khí ngũ Bínhngũ Ngọ.Thị hoả khanh. Tỵ-Dậu-Sửu niên gia
bại khuynh. Hựu kiến Ngọ-Đinh thuỷ, quan mộc dề lan băng.
( Hoả khanh )
34. BÍNH NGỌ*
Khí chánh Ngọ long.Gia nghiệp bình bình phát nhân
thông, mưu sự ổn thỏa chư thuyền cát. Thân-Tý-Thìn niên Tỵ-Dậu-Sửu phùng. Nhược
kiến Sửu Cấn thuỷ nê thuỷ nhập quan trung.
( Châu Bửu )
35. MẬU
NGỌ
Khí thất Ngọ tam Đinh.Quan tụng khẩu thiệt phần, nhân
đinh bình thường qua, tuế chiếuhoành sự lâm. Nhược kiếnTý - Quý thuỷ, Dần – Ngo
-Tuất niên ứng.
( Sai thác không vong )
36.TÂN MÙI
Khí thất Đinh tan Ngọ.Xuất nhân tuấn tú, tánh bất lỗ,
hộ phát như lôi hưởng, túc trận quán hư khố. Nhược kiến Ngọ phương thuỷ, nội
quan mộc xuyên xuất.
( Sai thác không vong )
37.QUÝ MÙI*
Chánh khí Đinh long. Xuất nhơn phú quý thọ bất cùng.
Nhược kiến Canh phương thuỷ, vong nhân tai nguy hung. Hợi-Mẹo-mùi niên ứng.
( Châu Bửu )
38.ẤT MÙI
Khí ngũ Đinh ngũ Mùi. Phạm Cô hư, hoả khanh, bại tuyệt
tối khảm đề. Hựu kiến Tỵ thuỷ lai, thi cốt dĩ thành nê. Tỵ-dậu-Sửu niên ứng .
( Hoả khanh )
39.ĐINH MÙI*
Khí chánh Mùi long . Song toàn phú quý trường cửu
phùng,Thân-Tý-Thìn niên ứng sảng, Dần – ngo - Tuất tuế định tào hung, thượng
kiến Sửu - Cấn thuỷ, quan tại thuỷ nê trung,
( Châu Bửu )
40.KỶ MÙI
Khí thất Mùi tam Khôn. Phạm Cô hư, ương hoạ, thối tài
định bất di, Dần-ngọ-Tuất niên xuất phong mê, kỷ ác nhân kiến nghi Nhược kiến
Sửu -Nhâm thuỷ, nhj tôn hoành sự tất.
( Sai thác không vong )
41.NHÂM THÂN
Khí thất Khôn tam mùi. Phá tài, phong đàm túc tố thực
khả ai,Tỵ – Dậu -Sửu niên ứng, chư dược nan điều tai. Nhược kiến Ngọ phương
thủy, quan nội thuỷ dương lai.
( Sai thác không vong )
42.GIÁP THÂN*
Khí chánh Khôn long.Xuất nhân thông minh phú quý
phong, Thân – Ty -Thìn niên tất hửu triệu, thế đợi lạc vô cùng. Nhược kiến Cấn
lưu thủy, quan nội lưỡng phân hung. ( Châu Bửu )
43.BÍNH THÂN
Khí ngu Thân ngũ Khôn, thị hắc phong, hoả khanh bại
tuyệt, chủ bần cùng. Nhược kiến Ty - Quý thủy, tỉnh nội nê thuỷ hung.
( Hoả khanh )
44.MẬU THÂN*
Khí chánh Thân long. Xuất nhơn thông minh thọ trường
phú quý song toàn. Nhược kiến Giáp phương thuỷ, quan nội nê thuỷ xâm.
( Châu Bửu )
45.CANH THÂN
Khí thất Thân tam Canh .Phạm Cô hư, quan tai sự xuất
kì. Hựu kiến Càn phương thuỷ, vong nhân thọ tai bức.
( Sai thác không vong )
46.QUÝ DẬU
Khí thất Canh tam Thân.Phú quý dương, nhân tài lưỡng
phát phúc thọ trường. Nhược kiến Đinh phương thuỷ, quan nội thị tiểu đường.
( Sai thác không vong )
47. ẤT
DẬU*
Khí chánh Canh long. Xuất nhân phú quý tối thông minh.
Nhược kiến Thìn cung thuỷ, quan nội thuỷ nê khanh
( Châu Bửu )
48.
ĐINH DẬU
Khí ngũ Canh ngũ Dậu, thị hoả khanh, bá thị bất toại,
tuyệt nhân đinh. Nhược kiến Quý thượng thuỷ, quan nội nê thuỷ vĩnh.
( Hoả
khanh )
49. KỶ DẬU*
Khí
chánh Dậu long. Văn võ cận tam công, Thân-Tý-Thìn niên ứng. Thế đợi phú quý
phong. Nhược kiến Mão phương thuỷ, quan bản bất toàn không.
( Châu Bảo )
50.TÂN DẬU
Khí
thất Dậu tamTân, phú quý du, nhân đinh điền tài vượng vô ưu. Hợi –Mẹo - Mùi
ứng, Càn thuỷ xung quan hựu khảm sầu.
( Sai thác không vong )
51. GIÁP TUẤT
Khí
thất Dậu tam Tân. Nhất đại phú quý phát bất cửu, hậu xuất tăng miếu đạo .Dần –
Ngo - Tuất niên hửu, cô quả hựu bại tuyệt, chư sự điệp kiến ưu. Nhược kiến Nhâm
phương thuỷ, mộ sanh kì quái xú.
( Sai thác không vong )
52. BÍNH
TUẤT*
Khí
chánh Tân long. Nhân đinh phát đạt lạc thời ung, đăng khoa cập đệ tảo. Thân – Ty - Thìn niên phùng.
Nhược kiến Giáp - mão thuỷ, mộc căn xuyên quan trung .
(
Châu Bảo )
53.
MẬU TUẤT
Khí
ngũ Tuất ngũ Tân .Phạm Cô hư, hoả khanh bại tuyệt, nhân đa tật, hoà thượng
thiếu nhân cô quả thâm, tổn thê khắc tử định vô nghi, Ngọ-Mùi niên tiền kiến,
phương tri thọ tai kỳ. Nhược kiến thân phương thủy, quan nội bất toàn đích.
( Hoả khanh )
54. CANH TUẤT*
Khí
chánh Tuất long. Phú quý vinh hoa y thực phong ,Tỵ – Dậu - sửu niên đa kiến hỷ.
Tam thập lục niên xuấ nhân thông .Nhược kiến ngọ-đinh thuỷ quan cốt nhập nê
trung.
( Châu Bảo )
55. NHÂM TUẤT
Khí thất
Tuất tịnh tam Càn. Xuất nhân vô tài tổn thiếu niên, ly hương tăng dữ đạo, tổn
thê khắc tử nhị phòng chiêm. Thân – Ty - Thìn niên ứng, bại thố vô kỳ toán.
Nhược kiến Thìn - tuất thuỷ quan nội nê thuỷ quyền.
( Sai thác không vong)
56. ẤT HỢI
Khí thất Càn tịnh tam Tuất. Xuất nhơn sương quả thiếu
vong cô, phong tật âm á thực túc xâm. Dần – Ngọ -Tuất niên điệp kiến khốc.
Thượng kiến Khôn cung thuỷ quan nội bạch nghị ốc.
(
Sai thác không vong )
57. ĐINH
HỢI*
Khí
chánh Càn long. Phú quý đại phát y thực phong, Thân – Ty - Thìn niên đa cát
khánh, chỉ phạ tốn thuỷ xung, quan mộc thuỷ nê hung.
( Châu Bảo )
58. KỶ HỢI
Khí
ngũ càn ngũ Hợi tịnh hắc phong, hoả khanh chủ bại tuyệt, Thân – Ty - Thìn niên
Dần – Ngọ - Tuất ứng, nhân tẩu tha hương đa kỳ quái.
( Hoả khanh )
59. TÂN
HỢI*
Khí
chánh Hợi long. Nhân tài lưỡng phát du long. Nhược kiến Ngo - Đinh thuỷ quan bổn bất toàn
dung.
( Châu Bảo )
60. QUÝ HỢI
Khí thất Hợi tam Nhâm. Xuất quan cảnh phong cảnh,
nhân đinh xương xí đa mỹ cảnh. Thân – Ty - Thìn niên ứng. Hựu kiến Thìn phương
thủyquan nội bất nhiểm tịnh.
( Sai thác không vong )
TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
ỨNG DỤNG CÁT HUNG
Hầu hết các thầy phong thủy
hiện nay dùng Hậu thiên bát quái, Tiên thiên bát quái chỉ dùng để trấn trạch và
giải luận thuyết âm dương. Qua chiêm nghiệm thực tế Tiên thiên bát quái vẫn có
sự huyền bí hữu hiệu, nếu các thiện hữu tin dùng sẽ chiêm nghiệm được. Tiên
thiên hay Hậu thiên đều là công trình của cổ nhân hiền tài, hậu sanh phổ dụng,
ta không dám nói nên hay không nên chọn cái lý nào, mà phải nói rằng có tiên
mới sanh hậu, đó là biến hóa thuận dụng. Sách giải luận Hậu thiên rất phong
phú, kết hợp dịch lý để định vị, nhất là dương trạch, nhiều người tiếp nhận, có
tính đặc thù cho từng cá nhân đang làm chủ dương cơ. Ứng dụng Tiên thiên thu
hẹp gần như không còn ai quan tâm vì nó chỉ đơn giản khả dụng trong 64 quẻ sanh
đối đãi hung kiết, không hoàn toàn dành riêng cho cá nhân. Giả sử, một nhà thờ
tộc, một cơ quan, một hãng có nhiều cổ đông sau khi đã có được vị thế có đủ
Huyền võ, Thanh long, Bạch hổ và Châu tước hợp sách, ta phải chọn cung mạng của
ai để định hướng tránh phạm, tránh sát; tất nhiên không thể chọn. Sự phạm sát
đã có trong vũ trụ do ảnh hưởng của từ trường, của sự vận hành từ các bức sóng
mà mắt ta không có khả năng nhìn; khi nhìn nhận phong thuỷ thì không thể phủ
nhận.
Vậy, Tiên thiên, công trình
thánh nhân truyền vô dụng hay sao! Điều nầy đặt ra câu hỏi khó trả lời cho
nhiều thầy phong thủy, nhưng TIÊN THIÊN BÁT QUÁI ỨNG DỤNG CÁT HUNG sẽ giải
quyết những vấn đề chắp vá của Hậu thiên bát trạch một cách rất hiệu quả.
Trước tiên phải chọn Tiên
thiên bát quái, định hướng Nam Càn, Bắc Khôn, Đông Ly, Tây Khảm. Trải quái tuần
tự theo chiều quay của Thái Cực từ Càn đến Đoài, Ly, Chấn a Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
- Ứng dụng trong các công
trình có tính chung
Khi chọn được thế cuộc,
hướng sẽ phụ thuộc cuộc nên hướng đó là PHỤC VỊ, phục vị là chủ cung, trong Phục vị lấy Thấu
Long Địa xác định kiết tường. Sau đó bố trí những yếu tố khác dựa vào cung tốt theo
hình đồ Tiên thiên bát quái.
-
Ứng dụng vị trí , chỗ ngồi làm việc là cá nhân.
Nói đến cá nhân là nói đến
cung mạng từng người, tức lấy CUNG PHI làm chủ cung.
Khi chọn được thế cuộc không
bị phạm xung, hướng sẽ phụ thuộc cuộc nên hướng chọn là vị trí tốt có thể chiếm
lấy để ngồi và trước mặt là một hướng tốt. Trên bát quái có 4 phương vị tốt của
mỗi người, nơi ngồi là một, còn lại 3, phương vị nào hợp lý đối với không gian
là hướng nhìn của ta.
Sau đây là cách tính chọn hướng cát hung từ Tiên
thiên bát quái.
Ví dụ, nhà hướng CÀN ☰ hoặc người
có cung phi là CÀN ☰
- Nhất biến thượng
Sanh khí tại ĐOÀI ☱
- Nhị biến trung Ngũ quỹ tại
CHẤN ☳
- Tam biến hạ Phước đức tại
KHÔN ☷
- Tứ biến trung Lục sát
tại KHẢM ☵
- Ngũ biến thượng Họa hại
tại TỐN ☴
- Lục biến trung Thiên y tại CẤN ☶
- Thất biến hạ Tuyệt Mạng tại LY
☲
- Bát biến trung Phục
vị tại CÀN ☰
Ví dụ khác, đối
với hướng, cung KHẢM ☵
- Nhất biến thượng
Sanh khí tại TỐN ☴
- Nhị biến trung Ngũ quỹ tại CẤN ☶
- Tam biến hạ Phước đức
tại LY ☲
- Tứ biến trung Lục sát
tại CÀN ☰
- Ngũ biến thượng Họa hại
tại ĐOÀI ☱
- Lục biến trung Thiên y tại CHẤN ☳
- Thất biến hạ Tuyệt Mạng tại KHÔN ☷
- Bát biến trung Phục
vị tại KHẢM ☵
Tương tự cho các cung khác mà lập hướng tốt.
Dưới đây là tượng Tiên Thiên Bát Quái
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng – Hoàng hàm thư - 1
Anne
Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
"Ngũ bách niên chi tiền,
mạch tại thượng, Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ,
Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"
Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"
Tập gia phả với tám ngôi cổ mộ
Họ Nguyễn ở làng
Báo Văn là một danh gia, lệnh tộc, không biết phát tích từ đời nào, nhưng người
quanh vùng vẫn thường đồn đải với nhau rằng : từ trên một trăm năm nay, họ
Nguyễn ở làng Báo Văn, chẳng đời nào là không có người làm quan to, hay đại hào
phú, chủ nhân ông những ruộng vườn thẳng cánh cò bay, đất đai chồn chân, ngựa
chạy.
Thiên hạ còn nói
nhiều đến tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn táng song song ở giữa cánh đồng vùng
Mông Sàng, Mông Phụ mà người ta tin chắc đó là những ngôi mả kết phát rất to
tát, lâu dài.
Nhiều nhà phong
thủy chính tông Hoa, Việt nghe thiên hạ đồn đải, đều không ngại vất vả, tốn
kém, tìm đến tận nơi quan sát khu vực có mộ phần tổ phụ họ Nguyễn.
Hết thảy đều
đồng ý tán thưởng sự tinh tế của cổ nhân: người đã có cặp mắt tinh đời, chọn
được thửa đất hiếm có ấy, vì theo sách đia lý, đó chính là kiểu đất Phụng-Hoàng
Hàm Thư, mà tám ngôi tổ mộ đều nằm vào đúng giữa bụng chim thần.
Nhưng vào đầu
mùa thu năm Ất Mùi (1775) một ông già đầu, râu, tóc bạc, quần vải,áo nâu, bề
ngoài trông rất tiều tụy, lam lũ, tìm đến tận nhà quan Án sát họ Nguyễn ở làng
Báo Văn, để trình bày về sự nhận xét riêng của lão về tám ngôi tổ mộ.
Hồi ấy quan Án
Sát tuy đã cáo lão hồi hưu, song dinh thự vẫn có người canh gác cẩn mật, không
kém gì lúc chủ nhân đang còn tại chức.
Tên gia nhân gác
cửa, thấy khách lạ hình dung cổ quái, y phục rách vá tứ tung, thì có ý khinh
rẻ, yên trí là khách lạ, nếu không định đến xin tiền quan Án, thì hẳn cũng chỉ
tới cầu cạnh một ân huệ chi đó, chứ dáng điệu ấy, người ngợm ấy thì hỏi còn có
gì đáng bàn chuyện quan trọng về đất cát mồ mả với chủ nhân hắn, vốn là một vị
đường quan, danh tiếng ở Bắc Hà!
Nghĩ vậy rồi,
hắn liền dơ tay xua đuổi ông già, một mặt khép chặt hai cánh cổng gỗ lim nặng
nề, khinh khỉnh nhìn khách lạ, như nhìn một quái vật hiểm nguy, nhơ nhớp!
Khách lạ chỉ hơi
nhíu mày, ngỡ ngàng về cách xử sự phũ phàng của tên gia nhân, nhưng chỉ thoáng
qua một chút, lão lại bình thản, mỉm cười ung dung nói lớn:
- Chú em đừng
nên khinh người, rẻ của quá như vậy? Lão đến đây với tất cả lòng thành khẩn,
kính mến đức độ, uy danh của Cụ lớn nhà, chứ nào phải tới cầu xin ân huệ, tiền
bạc chi đâu, mà chú em nở tâm xua đuổi cho đành?
Lão nói thiệt:
chú em nếu muốn cho Cụ lớn nhà đời đời vinh hiển, kế thế công khanh, thì hãy
kíp vào bảo với Cụ lớn cho lão được diện kiến, còn nếu không thì thôi, lão càng
khỏi phải tốn công, nhọc sức...
Tên gia nhân vẫn
không thay đổi ý định : cương quyết đóng chặt cổng dinh, và lớn tiếng quát
mắng:
- Lão già vô lý
quá! Khi không tới đây, bày đặt chuyện đất cát lôi thôi,. Nếu không khôn hồn
cút mau đi lở ra đến tai Cụ lớn thì lão chắc chắn sẽ bị ăn đòn nứt thịt!
Đang lúc hai
người điều qua tiếng lại, thì Cụ lớn từ tư thất bước ra, thấy vậy, vội tiến
thẳng đến gần tên gia nhân, hỏi vội:
- Chi đó bây!
Nếu người ta lỡ độ đường thì đem ra chút ít tiền gạo, đãi người ta, chứ việc
chi mà lớn tiếng vậy?
Khách lạ chưa
kịp nói gì, thì tên gia nhân đã sum soe tiến đến trước mặt quan Án, vái lạy,
rồi tằng hắng liên tiếp mấy cái liền, mới rụt rè cất được tiếng:
- Bẫm Cụ lớn,
lão già này không biết từ đâu tới đây, cứ nhất định một hai đòi vào yết kiến Cụ
Lớn cho kỳ được, để trình bày đất cát mồ mả chi đó. Con đã đem tiền gạo cho lão
và đuổi lão ra, nhưng lão ngang bướng lắm, cố tình muốn ăn vạ đấy ạ.
Quan Án Sát liếc
nhanh cặp mắt sâu thẳm, sau lớp kiếng trắng, gọng bạc về phía khách lạ, bất
giác phát sanh lòng kính phục con người bần hàn, lam lũ vô cùng, vì qua lớp y
phục bẩn thỉu, vá rách, vị hưu quan ở làng Bác Văn đã như mường tượng thấy được
một vẻ cao quý khác thường, ẩn hiện trên khuôn mặt già nua, cằn cổi, mà bộ râu
ba chòm bạc phơ, in hệt mớ cước trắng của khách lạ, đã làm nổi bật hơn nữa, nét
phong sương của một kẻ giang hồ phiêu lãng !
Quan Án nguýt
dài tên gia nhân lỗ mảng, dơ tay ra hiệu cho nó lui vào phía trong, đoạn thong
thả đi ra cổng, đến bên lão già niềm nở nói:
- Lão trượng phu
chớ chấp kẻ thất phu vô lễ, và xin mời vào chơi trong nhà cho tiện đàm đạo.
Khách lạ gật
đầu, có ý thỏa mản, ung dung xách khăn gói, kéo lê chiếc gậy trúc dài gần hai
sải tay, đầu uốn cong thành hình một con cú đứng co một chân, cánh xoè rộng hẳn
ra như muốn lấy đà tung bay, theo thế " Anh hùng độc lập", rồi thản
nhiên đi ngang hàng với vị hưu quan, cùng bước qua một cái sân gạch Bát Tràng,
rộng rải, vuông vắn, để lên thềm đại sảnh.
Ngôi nhà chính
của quan Án Sát hưu trí trông bề thế, cổ kính, như được xây cất từ mấy mươi đời
trước bằng các thứ danh mộc, hầu hết đều chạm trổ cực kỳ công phu, tỷ mỷ do
những thợ mộc tài hoa chuyên nghiệp ở các vùng Hà Nam, Ninh Bình đảm trách.
Tư thất kiến
trúc theo lối Đông Phương cổ kính, tấm mái cong vút như sừng trâu, do mấy hàng
cột lớn tay ôm, bóng lộn như gổ mun,, chống đỡ, được chia ra làm năm gian lớn,
bài trí toàn đồ cổ ngoạn gia bảo, sập gụ, tủ chè, đỉnh đồng lớn, giá lọ bộ,
chóe sứ, lọ Giang Tây, ánh vàng sơn rực rở từ những chiếc hoành phi, câu đối,
sơn son thếp vàng, lộng lẫy tỏa ra, càng tăng thêm, màu sắc, huy hoàng, nguy
nga, tráng lệ cho toà đại sảnh.
Quan Án Sát họ
Nguyễn mời khách lạ ngồi trên chiếc cẩm đôn phủ nệm bọc gấm điều trước một án
thư bằng gổ gụ, dưới một cặp tấm tía, lọng vàng, treo cao gần sát mái nhà.
Trên tường, một
thanh bảo kiếm, chuôi ngà, vỏ bạc, nằm vắt chéo, giữa một đôi tay thước khảm xa
cừ có tua đỏ dài lòng thòng, bên cạnh cái trống chầu sơn đỏ và đôi tù và làm
bằng hai con ốc cực lớn, bóng lộn như sừng.
Quan Án Sát ngã
người trên chiếc sập gổ chân quỳ, tựa tay lên chồng gối xếp màu hoàng anh, mắt
tuy lơ đảng nhìn ra ngoài sân, song kỳ thực, vẫn luôn luôn chăm chú theo dõi
từng nét biến chuyển trên khuôn mặt nhăn nheo của người khách lạ, đoạn vừa vuốt
râu, vừa vui ve hỏi người đối diện:
- Nghe bày trẻ
nói: lão trượng có nhả ý đến chơi để bàn chuyện về môn phong thủy.
- Hạ quan rất
hoan nghênh và sẳn sàng kính cẩn nghe lời vàng ngọc.
Rất mong lão
trượng đừng tiếc lời dạy bảo, thì không những may mắn cho hạ quan mà cả dòng họ
Nguyễn ở làng Báo Văn cũng được đội ơn hà hải...
Khách lạ ngạo
nghể nói:
- Lão đi qua
vùng này, tình cờ được thấy một khu đất cực quý ở ngay ngoài cánh đồng làng ta.
Lão hỏi thăm, thì bà con quanh đấy chỉ cho lão coi tám ngôi cổ mộ, và bảo rằng
đó là phần mộ của tổ phụ đại nhân.
Vì vậy lão mới
tìm tới đây, không ngoài ý muốn, được hầu chuyện với đại nhân về môn phong
thủy.
Quan Án Sát chặn
ngang:
- Lão trượng nói
sao?
Mấy ngôi mộ của
dòng họ Nguyễn, táng tại cánh đồng xứ Cốt Đang, làng Báo Văn, cũng đã khá lâu
ngày, không hề xảy ra sự nguy hại chi hết, sao giờ đây lão trượng lại có ý thắc
mắc? Xin hãy vui lòng cho lão phu biết rõ lý do?
- Khách lạ không
trả lời thẳng câu hỏi của vị hưu quan, mà lại nói lãng qua chuyện khác:
- Trước khi bàn
về mấy ngôi cổ mộ, lão muốn biết sơ qua ít điều thắc mắc: chẳng hay đạo nhân
bình thường có chuyên khảo cứu về khoa địa lý không?
Quan Án sát nhìn
khách lạ, như cố tìm hiểu xem trong sự hiếu kỳ của người đối thoại, có xen lẫn
một dụng ý gí, khả dỉ gây được thiệt hại cho dòng họ Nguyễn nói chung, và cho
bản thân quan Án Sát nói riêng.
Trên khuôn mặt
dày dạn phong sương, đen cháy vì nắng mưa dầu giải, đôi mắt sâu thăm thẳm nằm
dưới lớp kiếng lão của khách lạ, vẫn luôn luôn tiết ra một tinh thần khẳng khái
trung thực: nền tảng căn bãn của tín đồ Khổng Mạnh, khiến cho bất cứ ai được
tiếp xúc, dù chỉ mới là lần đầu tiên, cũng phải chân thành kính trọng, cảm mến,
coi như bậc trưởng thượng trong gia đình.
Vốn nề nếp nho
phong, trâm anh thế phiệt nên vị hưu quan nhận thấy ngay được nét tinh hoa đáng
quý ấy trên gương mặt quắc thước của khách lạ.
Vì vậy, chẳng
một chút ngại ngần, nghi kỵ, quan Án Sát sẳn sàng cởi mở ngay niềm tâm tư, ấp ủ
thầm kín trong kẻ phổi, khe gan từ bao lâu nay, chưa có cơ hội nào thuận tiên,
cũng như chưa gặp được bạn tri âm nào tâm đầu ý hiệp để giải tỏ can tràng:
- Ngay từ khi
còn để chỏm, ngày ngày cắp sách đến tập làm văn tại trường Cụ Thám Hoa ở làng
dưới, lão phu đã đặc biệt chú ý đến môn phong thủy, mỗi khi thấy người quanh
vùng đem trầu rượu, lễ vật đến nhờ Cụ Thám Hoa tìm đất giúp.
Có nhiều lần
được Cụ Thám cho theo hầu, lão phu thường nhìn ngắm say sưa chiếc tróc long
hàng giờ không biết chán, nâng niu cái la kinh, thận trọng còn hơn một người
chơi đồ cổ săn sóc đôi lọ từ đời Tống, đời Đường, đến nổi thấy lão phu ham mê
môn phong thuỷ, Cụ Thám đã vui vẻ giảng dạy cho lão phu biết sơ qua về cách
phân kim, án hướng, thế nào là án nga my, thế nào là tay long, tay hổ, thế nào
là thuận nghịch, thế nào là quán khí.
Nhờ đấy, lão dù
không am tường, thấu triệt một cách tinh vi khoa học, huyền bí, kỳ diệu ấy,
cũng có thể hiểu đại cương sự chuyển vận của long mạch, để tìm trúng chánh
huyệt tại các khu đất quý.
Khách lạ không
chờ cho quan Án dứt lời, liền hỏi ngang:
- Thôi thế cũng
tạm đủ! nhưng có điều lão vẫn chưa hiểu: Vì nếu đại nhân đã biết rành mạch môn
địa lý thì sao lại không nhận chân được sự sai lệch của tám ngôi tổ mộ ở xứ Cốt
Đang?
Vị hưu quan có
vẻ sượng sùng, vội dơ tay phác một cử chỉ ngăn chận rồi nói nhanh:
- Thì lão phu có
dám nhận mình là am hiểu tinh vi môn địa lý đâu? Lão phu sở dĩ biết sơ qua chút
ít, cũng là do sự chiếu cố của Cụ Thám Hoa, lúc còn đi học, thấy lão phu mê say
khoa phong thủy, người mới giảng dạy đại cương cho lão phu nghe, sự kỳ bí,
huyền diệu của mạch đất, có thế thôi! Nào lão phu có biết gì hơn.
Vậy nếu những
ngôi tổ mộ kia có chi sai lệch, xin lão trượng vui lòng chỉ dạy, lão phu nguyên
tạc dạ, ghi xương, thề trọn đời không dám quên ơn lão trượng.
Khách lạ ha hả cười to, đầu gật lia lịa như vô cùng đắc ý:
Khách lạ ha hả cười to, đầu gật lia lịa như vô cùng đắc ý:
- Được, Lão xin
nhận lời giúp đở đại nhân.
Nhưng công việc
xem xét mộ phần, phúc lại! lúc tới tám ngôi mả, không phải là việc làm một sớm,
một chiều mà xong được?
Phải mất ít ra
hàng tháng mới mong tìm được tất cả mọi sự khuyết điểm, không những ở bề ngoài
căn cứ theo hình thức mộ phần, mà còn dùng thuật riêng đặc biệt bí truyền, để
xem xét lòng huyệt cũng như hài cốt an táng ở trong tiểu...
Công việc phức
tạp ấy, không phải một vài hôm hay năm, bảy bửa mà xong được đâu? Đại nhân là
bậc danh sĩ, quán thông lý, số, y, nho, lại thấu triệt được cả lẽ huyền vi, kỳ
bí của môn phong thủy, thỉ hẳn không cho lời lão là viển vong, vu khoát.
Quan Án Sát
thong thả đứng lên, hướng về phía khách lạ, vái dài, chậm rải nói:
- Được nghe lời
giảng dạy vàng ngọc, lão phu nhu kẻ đang lần mò đi trong đêm tối, bổng gặp được
ánh đuốc soi đường!
Quả thật là vạn
hạnh.
Lão phu tin rằng
cuộc sơ kiến bửa nay, do lòng trời đưa lại, cũng là duyên kỳ ngộ từ kiếp trước,
nên mới run rủi cho lão phu gặp đặng qúy nhân, để nghe lơi dạy bảo của bậc cao
hiền, hầu biết đường họa phúc và lẽ thạnh suy của đời mình!
Vậy nhân dịp
này, nếu lão trượng không chê hàn xá thô lậu, lão phu xin kính mời lão trượng
tạm ngừng gót ở chơi tệ xá ít ngày, cho lão phu có cơ hội thuận tiện học hỏi
thêm đạo lý cao siêu của thánh hiền, nhất là sự nhiệm mầu của khoa địa lý.
Khách lạ vui vẻ
ngắt lời:
- Đại nhân bất
tất phải quá khiêm, lão xin hoàn toàn tuân lệnh đại nhân sai khiến. Vả lại, lão
không đến đây thì thôi, chứ một khi đã tới thăm quý phủ, được đại nhân dùng
biệt nhản đón tiếp, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, lại cũng chẳng câu nệ
bức tường ngăn cách quan ,dân, khiến cho tấm thân gìa nua, vô dụng gần kề miệng
lỗ này được tiếp xúc với bậc quý nhân, trau dồi thêm cho mớ kinh nghiệm cằn cổi
thêm phần quảng bác thì há chẳng phải là một cơ hội hãn hửu muôn thuở nhất thời
cho lão ư?
Vị hưu quan tươi
nét mặt, vui mừng đáp rằng?
- Được lão
trượng nhậm lời, lão phu thật vô cùng cảm kích. Vậy trong thời gian tạm lưu tại
tệ xá, nếu có cần gì, xin lão trượng cứ truyền gọi gia nhân, sai khiến chúng và
coi chúng như nô bộc của lão trượng.
Khách lạ tiếp
lời:
- Xin đa tạ
thịnh tình của đại nhân. Có điều lão phu phải cần thưa trước : ngay từ sáng
mai, kính xin đại nhân cho người hướng dẫn lão đi thăm lại một lần nữa, cánh
đồng có an táng tám ngôi tổ mộ của dòng họ nhà ta, và nếu không có chi bất
tiện, xin đưa lão đi thăm luôn cả các ngôi mả khác ỡ trong họ nữa.
Có thế, lão mới
có thể quyết đoán đích xác được sự kết phát hay nguy hại của của các ngôi tổ
mộ.
Quan Án Sát mỉm
cười, ngăn cản :
- Lão trượng đi
đâu mà vội vàng quá thế? Xin hãy thong thả dạo thăm phong cảnh trong vùng ít
bửa, rồi sau đấy, se lưu ý đến mồ mả, đất cát, tưởng cũng không phải là quá
muộn.
Ông già, lắc
đầu, tỏ ý bất mản:
- Đại nhân quá
thương, muốn cho thân già này được ung dung, nhàn nhả, tấm tình tri ngộ ấy, lão
xin ghi sâu trong phế phủ. Nhưng sô lão vất vả, ngay từ khi ra đời, vẫn phải
luôn luôn vật lộn với sinh kế từng khắc, từng giờ, chẳng mấy lúc được thảnh
thơi, rổi rãi!
Do đấy, nếu cho
lão ngồi yên hưởng lạc, chỉ những hai bửa liền, là thế nào lão cũng bị đau đớn
gân xương, chân tay ngứa ngáy, cơ hồ như có một mảnh lực kỳ bí thúc đẩy, lão
phải chạy nhảy, hoạt động hăng hái hơn, để giữ cho sức khỏe được dồi dào bền bỉ
lâu dài!
Vị hưu quan chợt
nhìn trên án thư có đủ đồ văn phong tứ bảo. Nhớ tới một việc quan trọng, nên
vội đưa tay cầm một cuốn sách bìa sơn đen dày cứng, rồi nhích mình qua phía
khách lạ, đoạn hạ thấp giọng nói vừa đủ nghe:
- Lão phu có một
điều tâm sự, liên can đến hạnh phúc, vận mạng của cả dòng họ Nguyễn ở làng Báo
Văn, mà từ khi khôn lớn tới bây giờ, lão phu vẫn nhất định chôn sâu trong phế
phủ, chưa hề dám thố lộ với một ai, kể cả những bạn bè, hay họ hàng thân thích!
Số là trong gia
phả của tiền nhân lưu lại, từ đời Hậu Lê, có ghi một lời ký chú, đinh ninh dặn
lại con cháu rằng:
"Tám ngôi
tổ mộ, an táng tại xứ Cốt Đang thuộc cánh đồng làng Báo Văn, tuy kết phát,
nhưng muốn cho dòng họ hưởng phúc lộc lâu dài, thì năm Ất Mùi (1775) phải nhờ
thầy địa lý chính tông soay lại hướng mộ phần. Nếu không tuân theo lời trong
gia phả, dòng họ sẽ bị suy tàn, mau chóng..."
Lời ghi chú
trong gia phả, con cháu trong chi trưởng của dòng họ lão phu, phải luôn luôn
chôn sâu nơi tâm khảm, coi đấy như nguồn sống chánh yếu của cả một dòng họ,
không thể vì một lẽ gì lãng quên được!
Vì vậy ngay từ
đầu năm nay, thấy đã tới hạn kỳ ghi trong thế phả, lão phu đã phải tìm thầy địa
lý, nhờ phúc lại tám ngôi tổ mộ ở cánh đồng làng Cốt Đang.
Nhưng dù lão đã
tốn nhiều công phu cũng như tiền bạc, cho gia nhân đi khắp mọi nơi, cố lùng
kiếm cho được một nhà phong thủy chính tông, mà không hiểu vì nhà lão kém âm
công, phúc đức hay sao, mà người đi tìm đã mấy tháng nay, vẫn chẳng sao kiếm
nổi một thầy địa lý nào, khả dỉ có tài tìm được chánh huyệt trong một khu đất
quý, chứ đừng nói là để mả kết phát nữa!
Lão phu đang lo
buồn, thì lão trượng đến chơi!
Quả thật là đại
hạnh cho dòng họ Nguyễn Nhà lão!
Do sự tình cờ,
mà cũng là duyên kỳ ngộ ấy, lão phu thành khẩn yêu cầu lão trượng, hết lòng
giúp đở cho lão phu, làm trọn vẹn được lời ký thác của tổ tiên,thì suốt đời,
lão phu thề minh tâm, khắc cốt đức độ cao dày ấy của lão trượng.
Nói xong, quan
Án Sát lại vái dài rất cung kính.
Khách lạ vội
đứng phắt lên, dơ tay ngăn cản mà vui vẻ nói rằng:
- Đại nhân bất
tất phải thủ lễ và quá khiêm nhường như vậy, khiến cho lão bị tổn thọ mất hàng
kỷ đó!
Lão không đến đây, không được nghe chuyện đại nhân thuật lại về lời ký thác trong gia phả thì thôi, chứ một khi đã tới tận chỗ, được biết rõ tính cách quan trọng của tám ngôi mả thì có lẽ nào lão phu lại không hết lòng giúp đở.
Lão không đến đây, không được nghe chuyện đại nhân thuật lại về lời ký thác trong gia phả thì thôi, chứ một khi đã tới tận chỗ, được biết rõ tính cách quan trọng của tám ngôi mả thì có lẽ nào lão phu lại không hết lòng giúp đở.
Vậy ngay từ ngày
mai này, yêu cầu Đại nhân hướng dẩn lão đi thăm những ngôi mộ kia một lần nữa
cho thật cẩn thận, để lão mới có thời giờ nhận xét một cách chính xác hơn.
Sáng hôm sau, qua mấy tuần trà nước, vị hưu quan làng Báo Văn thân hành hướng dẩn thầy địa lý đi thăm các ngôi tổ mộ.
Sáng hôm sau, qua mấy tuần trà nước, vị hưu quan làng Báo Văn thân hành hướng dẩn thầy địa lý đi thăm các ngôi tổ mộ.
Lũ trẻ mục đồng
thấy quan Án hưu trí trịnh trọng trong chiếc áo gấm dài màu da đồng, chân mang
văn hài thêu chỉ ngũ sắc, lộng lẫy đi sóng vai với một ông già, dáng điệu rất
quê mùa, y phục rất thô lậu, thì kinh ngạc vô cùng, bỏ mặc cho trâu ăn cỏ ngoài
đồng, nô nức rủ nhau chạy theo hai người tíu tít kêu gọi nhau vui mừng như được
xem đám rước thần ở trong làng vậy.
Chúng càng ngạc
nhiên hơn nữa, khi thấy hai người không noi theo con đường làng đi ra ngoài
chợ, mà lại mang theo những bờ ruộng, đi ra xứ Cốt Đang ở cách xa cổng làng Báo
Văn tới trên hai dặm, khu đất có an táng tám ngôi mộ của họ Nguyễn, cao gần như
một cái gò lớn, chung quanh có một hàng rào cây khúc tần xanh om, chằng chịt
những sợi giây tơ hồng vàng chói!
Cả tám ngôi mả
đều không xây đắp chi hoa mỹ, nằm song song thành một dãy dài theo hình chữ
nhất,chiếm rải rác cả chiều dài của thửa ruộng cao không kém một chiếc gò!
Điều đặc biệt,
làm mọi người lưu ý hơn hết là cả tám ngôi mả, đều to cao, cỏ mọc xanh um, tươi
tốt lạ thường, khác hẳn những mồ mả ở chung quanh thường xuyên bị chủ đất phát
cỏ, đắp bờ mượn cớ xén cắt bớt ít nhiều những phía tiếp giáp khít ruộng đang
trồng khoai hay cấy lúa cho rộng châu vi canh tác.
Vừa hướng dẫn
khách lạ đi coi khắp nơi ngoài cánh đồng, quan Án vừa giơ tay tính nhẩm từng
đốt, rồi bất giác thở dài nét mặt đượm ve ưu tư, hoảng hốt nói to :
- Mà Ât Mùi thì
đúng là năm nay rồi lão trượng ạ!
Vậy mà từ tháng
giêng đến bây giờ tốn công tốn của đã khá nhiều, vẫn chưa tìm được nhà phong
thủy chính tông nào, khả dỉ có đủ tài năng phúc lại những ngôi mả này, để theo
đúng lời ghi chú trong gia phả, xê dịch lại cho họp với sự di chuyển của long
mạch.
Thầy địa lý nhìn
quan Án Sát hỏi gặng lại:
- Đại nhân định
tìm nhà phong thủy như thế nào? Xê dịch tổ mộ thì cứ xê dịch, hà tất còn phải
phúc lại mả cho mất công vô ích.
Vị hưu quan, lắc
đầu đáp liền không cần nghĩ ngợi:
- Lão trượng nói
thế là sai rồi. Thời buổi này, nho đạo mỗi ngày một suy vi, các môn lý, số,
phong thủy cũng hầu như bị mai một lần hồi. Đốt đuốc đi tìm những thầy địa lý
chính tông, ít ra cũng phải mất hàng năm mới kiếm được một người tài năng am
hiểu đến nơi đến chốn cách để mả, và chọn đất, còn đa số đều mờ mờ, mịt mịt,
chưa cầm vững chắc cái tróc long, chưa biết phương pháp sử dụng la kinh, cũng
vỗ ngực tự nhận mình giỏi địa lý!
Bởi sự tìm kiếm
nhân tài rất khó khăn như thế, nên lão mới bày ra cách phúc duyệt lại các ngôi
tổ mộ, vừa để xét nghiệm khả năng của người ta, vừa muốn được hiểu rõ hiện
trạng đích xác của các ngôi tổ mộ, vì nếu gặp kẻ mạo nhận danh nghĩa là nhà
hong thủy chuyên môn, tất họ không sao biết rõ được phương hướng các bộ hài cốt
nằm dưới lòng đất?
Do đấy, lão phu
mới có thể loại trừ được họ một cách dễ dàng!
Còn trái lại,
nếu họ nói đúng được vị trí an táng, của tưng bộ hài cốt, như nằm nghiêng nằm
ngửa hay đầu gối lên đầu, chân đạm vào đâu, đúng như lời ghi chú rành mạch
trong cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn, thì đây mới thiệt là thầy địa lý chành
tông!
Lão phu có thể
tin tưởng vào tài năng của người ấy để nhờ xê dịch mộ phần.
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng – Hoàng hàm thư - 2
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Đồ không có mắt
Ngừng lại một lát như để suy nghĩ thêm, quan Án Sát nói tiếp :
- Lão phu không phải là thận trọng vô ích đâu ? Cả tương lai một
dòng họ khá đông con cháu như dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn này, hết thảy đều
trông cậy vào tám ngôi tổ mộ, mà theo sự truyền tụng, đã kết phát được tới trên
một trăm năm rổi.
Nay nhất đán,
đang yên, đang lành, lại đem xê dịch đi, hay hơn trước thì chẳng sao, nếu rủi
lại bị đứt long mạch, hay động trệ, nay tai này, mai họa khác, cất đầu lên
không nổi, chẳng còn mong gì nở mày, nở mặt được với dân làng, thì hỏi ai phải
chịu trách nhiệm, không những với bà con trong họ mà còn luôn cả với tổ tiên
nơi chín suối nữa !
Lão phu là ngành
trưởng, phải gánh vác hậu quả nặng nề hơn hết của sự xê dịch di táng này !
Nhiều lúc lão
phu cảm thấy lo âu, sợ hải trước công việc phức tạp, khó khăn mà tổ tiên từng trối
trăn lại, nên có ý muốn giữ nguyên tình trạng hiện thời, được đến đâu hay đến
đó, chờ khi nào trong họ có triệu chứng suy sụp, lúc bấy giờ sẽ lo liệu cũng
không muộn gì !
Nhưng khốn nổi
trong gia phả, các cụ đã đinh ninh ghi chú, đời nọ ký thác cho đời kia, dặn con
cháu phải luôn luôn nhớ như in vào tâm tư, phế phủ là đến năm Ất Mùi, dù trong
họ không xảy ra việc gì cũng phải nhờ thầy địa lý di tản cả tám ngôi tổ mộ,
không được vì cớ gì trì hoãn hay trái lời trăn trối !
Lão phu bình
sanh tôn trọng lễ nghi, đạo đức, nên không thể nào dám cưỡng lời tổ tiên truyền
lại !
Tình cờ được gặp
lão trượng, lại được lão trượng giảng dạy cho nghe sơ lược về môn phong thủy
thần bí, khiến lão phu mừng rở vô cùng, tin tưởng mãnh liệt đó là trời xanh phù
hộ, và tổ tiên họ Nguyễn khôn thiêng dung rủi cho lão trượng đến đây vừa đúng
lúc, để giúp cho lão phu hoàn thành trọng trách đối với tổ tiên !
Sau này con cháu
họ Nguyễn giữ vững được nền nếp của Ông Cha, hẳn chẳng bao giờ dám quên ơn sâu
hà hải của lão trượng !
Thầy địa lý vừa
thong thả dạo bước quanh khu ruộng cao, vừa chăm chú quan sát địa hình, địa thế
khắp nơi, bỗng đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn thẳng vào mấy ngôi mả nằm ở giữa
ruộng, đoạn mở khăn gói lấy tróc long ra, thận trọng đặt xuống một mô đất cao
nhất vùng, rồi bất giác vỗ đùi kêu lên một cách tức bực :
- Hừ ! Đồ mù !
Không biết một tí gì đến môn phong thủy mà cũng đòi để mả cho người ta, làm
thiệt thòi nặng cho các gia đình mộ chủ !
Vị hưu quan kinh
ngạc trước sự tức giận bất ngờ của khách lạ, hấp tấp hỏi vội :
- Thưa... Có
việc gì xảy ra, mà lão trượng phải nặng lời như vậy.
Như được người
"gãi đúng chỗ ngứa", nhà phong thủy dơ tay chỉ vào mấy ngôi mả nằm
giữa ruộng, gàn giọng !
- Đấy, Đại nhân
coi kìa ! Ai từng nghiên cứu về môn địa lý, cũng đều nhận thấy ngay được nơi tụ
tập tinh khí của thửa đất, hay nói cho rõ nghĩa hơn : nơi quy tụ long mạch của
ngôi đất quý !
Vậy mà người tìm
đất, phụ trách về công việc phân kim, án hướng, lại lựa chọn chỗ quá cao kia,
để an táng tám ngôi mả, thì quả là một chuyện lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của
những nhà địa lý chánh tông. Từ chỗ tám ngôi mả hiện thời đến nơi qui tụ long
mạch, chỉ có chừng năm thước !
Nhà phong thủy,
năm xưa, chỉ cần cho đào huyệt ở thửa ruộng thấp, là có thể táng mả trúng long
mạch, tạo được sự kết phát vinh hiển hơn, oanh liệt hơn diểm phúc mà họ Nguyễn
đã được hưởng thụ từ trước tới bây giờ.
Vị hưu quan tỏ ý
hoài nghi :
- Lão trượng dạy
thế, lão phu cũng biết thế thôi. Nhưng lão phu tin rằng : tổ tiên dòng họ
Nguyễn, đa số là những danh nho, khoa bảng xuất thân, thấu triệt tinh tế lẽ
huyền vi của môn địa lý, một khi đã tin tưởng vào sự lưa chọn của nhà phong
thủy nào đó, ủy thác cho người ta trông coi một lúc tới tám ngôi mả, có tính
cách quyết định vận mạng, phúc trạch của hàng mấy người, trong dòng họ, thì có
lẽ đâu lại sai lầm cho được ?
Hơn thế, từ hơn
một trăm năm nay, căn cứ theo lời ghi chú trong gia phả, đang còn lưu lại từ
đường, do chính lão phu là chi trưởng gìn giữ, thì con cháu họ Nguyễn, ngay từ
khi tám ngôi mả kia quán khí, đều phát tích, thi đậu, kế tiếp nhau làm quan, dù
chẳng Tể Tướng, Trạng Nguyên, cũng nối đời Tiến sĩ, Cử Nhân, Tri Phủ, Án Sát...
Thầy địa lý
trừng mắt nhìn quan Án Sát, đoạn cười nhạt trả lời :
- Đại nhân không
tin ? Đó là quyền riêng của Đại Nhân ! Lão chẳng biết nói sao bây giờ ?
Tuy nhiên, muốn
cho Đại Nhân tin lời lão là xác thiệt, chứ chẳng phải là lời viễn vong, vu
khoát thốt ra trong một lúc cao hứng nhất thời, lão sẽ cắm một cành cây khô
héo, có thể nói là một cành cây đã chết hẳn hoi, xuống chỗ có long mạch, lão
vừa chỉ cho Đại Nhân coi, rồi sau ba ngày, ba đêm, đại nhân sẽ biết rõ ràng sự
thực.
Nếu quả thực đó
là nơi quy tụ long mạch, có đầy đủ khí thiêng nhật nguyệt, thì thời gian ba
ngày, ba đêm, sẽ làm sống lại một cành cây khô héo, khiến cho cành khô đâm
chồi, nẩy lá, tươi tốt mơn mởn, như đang được sống trên cây đại thụ, trồng vào
nơi đất màu mở, phì nhiêu.
Trái lại, nếu
đúng long mạch đang quy tụ ở trên cao, nhằm chỗ an táng tám ngôi tổ mộ, thì
cành khô sẽ vẫn khô héo cằn cổi như lúc mới cấm xuống đất, chẳng tạo được một
chút sinh khí nào hết !
Đến
nước ấy, lão sẽ quăng bỏ tróc long, đập bể la kinh, để tự ý đi tìm nghề khác,
chứ không còn mặt mũi nào, đóng vai thầy địa lý đi đâu.
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng - Hoàng hàm thư - 3
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Cành cây khô đâm chồi nẩy lộc
Phóng thẳng luồng nhởn tuyến, vào giữa mặt vị hưu quan, nhà phong
thủy gay gắt tiếp lời:
- Ngay cả đến
Đại Nhân, người được lão vô cùng kính trọng về tiết tháo, văn chương, lại tiếp
đãi lão cực kỳ trọng hậu, ngay từ buổi đầu tiên, hội ngộ, lão cũng xin thề độc:
cương quyết giả từ đại nhân, để đi âm thầm ở một nơi nào xa xôi hẻo lánh!
Bao nhiêu tình
nghĩa dang dở ngày nay, kiếp lai sanh chúng ta sẽ nối tiếp cho thỏa tình tri kỷ
tương phùng!
Quan Án Sát cảm
động trước lời tâm huyết chí tình của khách lạ, vội dơ tay phác một cử chỉ ngăn
chận, cất giọng trầm trầm như có vẻ nghẹn ngào, xúc cảm:
Lão trượng bất
tất phải bi quan thái quá! Lão phu sở dỉ phải phân trần khúc triết về những sự
kiện kỳ dị bao phủ quanh tám ngôi tổ mộ, chỉ là muốn có dịp trình bày một sự
thực hiển nhiên : đó là sự kết phát từ khi an táng những hài cốt ấy đến bây
giờ, căn cứ theo gia phả dòng họ lão phu chưa hề có một đời nào bị gián đoạn
trong khoa danh hay hoạn lộ!
Bảo rằng những
ngôi mả ấy bị sai long mạch, thì sao lại kết phát được tới mức độ ấy, Lão phu e
sự tính toán xem xét của lão trượng có một phần nào sai lầm chăng?
Thầy địa lý châu
mày, lộ vẻ bất bình:
- Bất tất phải tranh luận làm chi, vô ích! Đại nhân nếu chưa hoàn toàn tin tưởng những lời lão vừa trình bày, thâm tâm còn một phần nào hoài nghi, thắc mắc, thì lão xin hiến thêm một phương pháp thử thách nữa, tiến hành cùng một lượt với việc cắm cành cây khô xuống nơi hiện đang quy tụ long mạch do lão mới tìm được.
Đó là cách đem một thân cây hết nhựa, cắm xuống cạnh ngôi tổ mộ, nằm chính giữa khu ruộng này, thử xem sau 3 ngày, nó có tươi tốt, khôi phục được nhựa sống như cành cây trồng ỡ nơi lão chỉ định không?
- Bất tất phải tranh luận làm chi, vô ích! Đại nhân nếu chưa hoàn toàn tin tưởng những lời lão vừa trình bày, thâm tâm còn một phần nào hoài nghi, thắc mắc, thì lão xin hiến thêm một phương pháp thử thách nữa, tiến hành cùng một lượt với việc cắm cành cây khô xuống nơi hiện đang quy tụ long mạch do lão mới tìm được.
Đó là cách đem một thân cây hết nhựa, cắm xuống cạnh ngôi tổ mộ, nằm chính giữa khu ruộng này, thử xem sau 3 ngày, nó có tươi tốt, khôi phục được nhựa sống như cành cây trồng ỡ nơi lão chỉ định không?
Vị hưu quan vui vẻ gật đầu tán thành ý
kiến ấy, rồi nhanh nhẹn tiến thẳng đến bụi khúc tần trước mặt, dơ tay bẻ luôn
hai cành ổi lớn, tuốt bẻ hết mầm, lá đi, đem về chỗ cũ, đưa cho nhà phong thủy
xét nghiệm.
Hai người hì hục một lúc lâu, vẫn không làm cách nào trồng được hai cành cây, vì ngoài một chiếc khăn gói nhỏ trên vai thầy địa lý, cả hai người đều không ai mang theo một thứ dụng cụ gì, khả dỉ đào được hai hố sâu để trồng cây, như lời đề nghị của nhà phong thủy là … Trồng hai cành cây xuống hai nơi xa cách nhau không quá ba sải tay : một cành ở giữa địa khu an táng tám ngôi tổ mộ nằm trên gò cao, một cành ở dưới ruộng thấp nơi chánh huyệt mà thầy địa lý vừa khám phá được.
Vừa dùng gót chân, nện chặt những tảng đất ẩm ướt gần đó, để cho hai cành cây tựa vào, nhà phong thủy vừa cất giọng gay gắt mỉa mai:
- Làm thầy thiên hạ kể ra cũng chẳng có chi là khó khăn cho nó lắm!
Chỉ cần chuẩn bị đủ lệ bộ : cố mua sắm cho kỹ được mấy cái tróc long, la kinh và vài ba cuốn sách, đem xếp gọn tất cả vào một chiếc khăn gói là đã có thể nghiểm nhiên vỗ ngực : tự xưng mình là địa lý chánh tông, tìm đất để mả cho mọi người một cách rất tự nhiên, làm như mình là con cháu những vị thánh sư địa lý, được thừa hưởng cả một kho tàng vô giá về môn phong thủy thần kỳ!
Ngừng lại một lát lão lui hẳn về phía sau ba bước, nghiêng nghiêng mái đầu bạc phơ, nhìn sững cành cây, đoạn quơ tay, như muốn diển tả sự bất bình!
- Hừ, Thật là quái dị long mạch từ các phía đổ dồn cả về đây hết sức rõ ràng như thế này rồi mà ông " thầy gà mờ " nào đó lại còn nhận định sai lầm, đem tất cả tám ngôi tổ mộ táng hết ở phía trên, thì liệu có đáng tiếc không ở trời!
Nhưng sự sai lầm ấy, kể ra cũng còn tạm tha thứ được phần nào, chứ cái lối xếp đặt vị trí mộ phần, theo hình chữ nhất, thì... quả thiệt là bất khả thứ dã!
Hai người hì hục một lúc lâu, vẫn không làm cách nào trồng được hai cành cây, vì ngoài một chiếc khăn gói nhỏ trên vai thầy địa lý, cả hai người đều không ai mang theo một thứ dụng cụ gì, khả dỉ đào được hai hố sâu để trồng cây, như lời đề nghị của nhà phong thủy là … Trồng hai cành cây xuống hai nơi xa cách nhau không quá ba sải tay : một cành ở giữa địa khu an táng tám ngôi tổ mộ nằm trên gò cao, một cành ở dưới ruộng thấp nơi chánh huyệt mà thầy địa lý vừa khám phá được.
Vừa dùng gót chân, nện chặt những tảng đất ẩm ướt gần đó, để cho hai cành cây tựa vào, nhà phong thủy vừa cất giọng gay gắt mỉa mai:
- Làm thầy thiên hạ kể ra cũng chẳng có chi là khó khăn cho nó lắm!
Chỉ cần chuẩn bị đủ lệ bộ : cố mua sắm cho kỹ được mấy cái tróc long, la kinh và vài ba cuốn sách, đem xếp gọn tất cả vào một chiếc khăn gói là đã có thể nghiểm nhiên vỗ ngực : tự xưng mình là địa lý chánh tông, tìm đất để mả cho mọi người một cách rất tự nhiên, làm như mình là con cháu những vị thánh sư địa lý, được thừa hưởng cả một kho tàng vô giá về môn phong thủy thần kỳ!
Ngừng lại một lát lão lui hẳn về phía sau ba bước, nghiêng nghiêng mái đầu bạc phơ, nhìn sững cành cây, đoạn quơ tay, như muốn diển tả sự bất bình!
- Hừ, Thật là quái dị long mạch từ các phía đổ dồn cả về đây hết sức rõ ràng như thế này rồi mà ông " thầy gà mờ " nào đó lại còn nhận định sai lầm, đem tất cả tám ngôi tổ mộ táng hết ở phía trên, thì liệu có đáng tiếc không ở trời!
Nhưng sự sai lầm ấy, kể ra cũng còn tạm tha thứ được phần nào, chứ cái lối xếp đặt vị trí mộ phần, theo hình chữ nhất, thì... quả thiệt là bất khả thứ dã!
Chẳng cần phải
bỏ công phu nghiên cứu, học hành về môn địa lý mới biết rõ, mà ngay đến những
người chẳng bao giờ cầm đến cuốn sách, giảng dạy về các kiểu đất, với cách dò
tìm long mạch, chánh huyệt, chỉ khẻ liếc qua địa hình, địa thế khu vực này,
cũng nhận thấy ngay được tính cách cẩu thả của ông thầy địa lý mà chẳng hề biết
gì về môn địa lý!
Chính nhờ đấy,
lão mới nẩy ra ý định tìm tới quý phủ để bàn luận với đại nhân hầu kiếm phương
pháp cứu vản cho tám ngôi tổ mộ đắc địa hơn, vì kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư
đâu có phải là một kiểu đất tầm thường, có thể tìm thấy được ở bất cứ chỗ nào,
mà thực ra, nó có nhiều đặc điểm quý báu lạ lùng, dù không kết phát được tới đế
vương, công hầu, khanh tướng song cũng làm đến Bố Chánh, Án Sát, đời này qua
đời nọ, kéo dài hàng vài trăm năm mới bị suy giảm lần hồi, nếu người để mả biết
rành về khoa phong thủy.
Mới trông sơ qua
hình thế khu gò Cốt Đang với vị trí tám ngôi mả, lão cũng tưởng nó chỉ phạm vào
chút khuyết điểm tầm thường không đáng kể mà nếu có ảnh hưởng đến sự kết phát
thì cũng chẳng gây được tai hoạ chi nặng nề, khả dỉ làm tổn thương cho con cháu
dòng họ Nguyễn sau này.
Nhưng quả thực
là một việc quá bất ngờ, khi lão có cái may mắn được theo hẳn Đại Nhân hôm nay,
qua vùng này, vì nhờ đó lão mới có cơ hội thuận tiện quan sát kỹ lưỡng, toàn
thể khu cánh đồng xứ Cốt Đang, để nhận chân ra sự sai lệch, không những về vị
trí an táng, mà còn luôn cả đến long mạch nữa !
Mà nói đến long
mạch, thì Đại Nhân hẳn cũng hiểu rằng : đó là vấn đề then chốt, một yếu điểm
cực kỳ của môn địa lý !
Bất cứ ai, một
khi dã am hiểu khoa phong thủy, cũng đều phải công nhận một sự thật hiển nhiên
: tay long, tay hổ, minh đường, án, trầm v.v...tất cả các điều kiện cần thiết
của một mộ phần đắc địa, dù cho có đủ hết cả, mà chỉ sai lệch chánh huyệt, hài
cốt không táng được đúng vào nơi quy tụ long mạch, thì nhất định ngôi mả ấy
chẳng còn mong gì kết phát được nữa!
Trái lại, có khi
còn gây thêm sự động trệ, nguy hại cho gia đình mộ chủ là khác!
Hậu quả ấy,
chính là do âm công phúc trạch của tiền nhân, cũng như của chính bản thân mộ
chủ, hãy còn đơn bạc quá, chưa đáng được hưởng ân huệ của Phật Trời, nên Tạo
Hóa an bài, mới xui khiến cho mộ phần táng không nhằm chánh huyệt!
Tính cách quan
trọng của sự dò tìm chánh huyệt, đã làm cho lão nhớ đến công trình học tập năm
xưa về môn địa lý: Suốt ngày lão phải dò xét, tìm kiếm cho được những đồng tiền
điếu, dấu kín dưới các mâm gạo, mà sư phụ lão, đã dàn xếp, bố trí theo hình thể
núi sông, gò đống, ruộng nương để giảng dạy học trò.
Khi nào tìm thấy
được đủ cả trăm lần, không sai lệch một lần nào, dù chỉ cách nhau một đường tơ,
một sợi tóc, lúc bấy giờ mới được kể là thành tài, có đủ điều kiện đi để mả cho
thiên hạ!
Trong những ngày
đầu, thấy địa hình, địa thế, do sư phụ lão bày ra trên mâm gạo, không có gì khó
khăn lắm, lão cũng như các bạn đồng môn hết thảy đều coi thường, nhiều khi đùa
nghịch bịt mắt lại, cũng kiếm được ngay tức khắc đồng tiền điểm dấu tại chánh
huyệt!
Nhưng rồi, địa
thê, địa hình, theo đà tiến bộ của sự học hỏi, cứ mỗi ngày một phức tạp thêm,
bí hiểm thêm, đòi hỏi lão cùng các bạn đồng môn phải khổ công nghiên cứu, đến
quên ăn, quên ngũ mỗi khi gặp phải những kiểu đất lạ lùng, hóc hiểm.
Kiểu đất Phụng
Hoàng Hàm Thư này, cũng thuộc vào loại bí hiểm mà lão vừa trình bày, nên có lẽ
vì thế, thầy địa lý nào đó, năm xưa, mới mắc phải những lổi lầm đáng tiếc!
Tuy nhiên, ở
trên cỏi đời, nếu đã có bệnh trọng thì lẽ tất nhiên cũng phải có thuốc hay!
Đây là công lệ
của Tạo Hóa!
Người ta chỉ lo
không biết rõ căn bệnh, không biết đích xác bệnh chứng phát ra từ đâu, chứ nếu
đã tìm được rành mạch bệnh căn, thì nhất định, sự điều trị không còn phải là
chuyện viển vong nan trị nữa!
Tám ngôi mả của
dòng họ Nguyễn cũng vậy!
Nhà phong thủy
ngày xưa đã tìm được đúng kiểu đất quý, xứng đáng là thầy địa lý chính tông,
nhưng tiếc thay, lại táng sai chánh huyệt, khiến cho long mạch chảy dồn cả
xuống phía dưới.
Tám bộ hài cốt
chôn ở khu ruộng trên cao, vì vậy, chẳng có ngôi mả nào được long mạch tưới
vào.
Sự kết phát nếu
có, hẳn chỉ là nhờ những khí thiêng tỏa ra, tạo ảnh hưởng ít nhiều cho cho các
mộ phần kế cận!
Trước những lý
luận đanh thép, và lời phán đoán sâu sắc, minh bạch của khách lạ, vị hưu quan
cảm thấy kính phục nhà phong thủy một cách chân thành, coi lão như một nhân vật
phi thường, thông kim, bác cổ!
Quan Án Sát gạt
bỏ tất cả những ý nghĩ không tốt đẹp đối với thầy địa lý, hoàn toàn tin tưởng
vào khả năng của khách lạ để xoay sở, thay đổi một tình trạng có thể gọi được
là vô cùng trở ngại cho con cháu họ Nguyễn ở làng Báo Văn.
Nghĩ thế, rồi vị
hưu quan không chút ngần ngại gì, hướng thẳng vào nhà phong thủy mà chấp tay
kính cẩn nói rằng:
- Được lão
trượng giảng dạy cho nghe những lởi vàng ngọc, lão phu như kẻ tối tăm, được vén
mây, thấy ánh mặt trời!
Càng nghĩ, lão
phu lại càng thầm cảm ân huệ của Phật Tròi, đã dung rủi cho lão trượng dời gót
ngọc đến đây, ban phúc trạch cho lão phu và luôn cả con cháu dòng họ Nguyễn ở
làng Báo Văn!
Lão phu chẳng
còn biết dùng lời lẻ gì để chứng tỏ lòng tri ân chân thành của lão phu đối với
một bậc cao hiền có chân tài thực học như lão trượng!
Vậy chỉ xin kính
cẩn nhờ lão trượng mở lượng hải hà, thay đổi lại chiều hướng cho ngôi tổ mộ của
lão phu được yên vị như như lời tiền nhân ghi chú trong gia phả, thì ơn ấy, lão
phu thề chẳng bao giờ dám lãng quên!
Hai người nhìn
nhau, cùng mỉm cười, rồi bất giác nắm chặt lấy tay nhau, xiết mạnh, như muốn
truyền vào cơ thể của nhau, niềm thông cảm sâu sa giữa đôi bạn già, dù chỉ mới
gặp nhau trong buổi sơ giao, nhưng lại biết trọng nhau vì nết, quý nhau về tài,
qua những thử thách gay go phức tạp!
Trồng
được hai cành cây khô xuống đất ở hai địa điểm khác nhau, nhưng vẫn không cách
xa nhau tới ba sải tay, tuy không phải là việc khó nhưng tuổi già sức yếu, hai
người đành rủ nhau, men theo đường cũ, trở về trong làng để gọi thêm một tên
gia nhân trong nhà quan Án ra giúp sức.
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng - Hoàng hàm thư - 4
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Người tìm ra kiểu đất Phụng Hoàng hàm thư quả nhiên bị mù thiệt
Nội bọn trở lại cánh đồng có chôn tám ngôi mã thì mặt trời đã đứng
bóng. Tám gia nhân lực lưỡng, không hề phí một chút giây nào vô ích, ngay khi
được nhà phong thủy chỉ cho biết chỗ phải đào để trồng hai cành cây khô, vội
bắt tay ngay vào công việc một cách rất mải mê, chăm chú.
Mới trông toàn
thể cánh đồng, ai cũng tưởng đất ở nơi này cũng không đến nổi khó đào cho lắm,
nhưng chỉ nhìn qua những nét nhăn nhó, in hằn trên khuôn mặt đen sạm của tên
gia nhân từ khi y vừa đào hết được lớp đất thứ nhất, sâu chưa tới một thép mai,
những người đứng gần đây, cũng đều biết là y đang gặp phải loại đất cứng rắn,
dù chẳng bền bỉ như đá, gạch, song cũng tốn nhiều công phu mới có thể đào sâu
được gần tới long mạch, như lời căn dặn của thầy địa lý. Đào xong được chiếc hố
sâu thứ nhất ở trên gò cao để chôn cành cây khô, thử xem khu vực này có đúng
thiệt là linh địa không thì đã sang giờ Mùi khá lâu.
Tên gia nhân lại
cắm cúi đào thêm hố thứ hai ở dưới ruộng thấp, nơi thầy địa lý cả quyết là đang
tập trung tất cả linh khí và long mạch của kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư.
Mặt đất chỗ này
mới đào có vẻ như dễ dàng lắm, vì tên gia nhân chỉ cần ấn nhẹ luỡi mai xuống
cũng đã bắt sang bên cạnh được một tảng đất khá to.
Nhưng càng đào
sâu xuống phía dưới, đất lại càng như khô quánh, rắn chắc lại, đến nổi người
lực điền có hai cánh tay gân guốc nổi lên cuồn cuộn như thừng chân, mà cũng
phải mím môi, nín thở, dồn hết cả sức lực vào cán mai, mới đào được những miếng
đất nhỏ không bằng nửa viên gạch chỉ!
Vị hưu quan và
thầy địa lý đứng gần đây, hình như thông cảm nổi khó khăn vất vả của tên gia
nhân đã luôn miệng khuyến khích y, và thay đổi nhau, kể lại những chuyện cổ
tích ân đền oán trả, ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ cho y nghe, hầu y tạm lãng
quên sự khổ cực, để mong hoàn thành cho chóng xong công việc, vì thực ra, hai người
mải mê đi quan sát kiểu đất suốt từ sáng, cũng đã cảm thấy mỏi mệt lắm rồi!
Đúng lúc hai
người đang uể oải vươn vai ngáp dài tỏ vẻ mệt nhọc sau gần nửa ngày đi đứng vất
vả thì tên gia nhân chợt kêu to một cách cực kỳ sửng sốt :
- Ồ này lạ! Có
cái gì đây này các Cụ ơi!
Tiếng kêu giật
giọng của người lực điền đã khiến thầy địa lý giật mình, cặp mắt đang nặng trĩu
như có vẻ buồn ngũ ghê ghớm của lão chợt mở to thao láo hẳn ra, rồi không cần
chờ coi thái độ của quan Án Sát hưu trí, lảo nhảy ngay đến bên hố sâu hấp tấp
hỏi vội:
- Có chi lạ mà
chú em la hoảng thế hử?
Tên gia nhân vẩn
chăm chú thận trọng đưa nhẹ lưỡi mai đào sâu thêm chút nữa, không buồn ngẫng
đầu lên, mà chỉ trả lời cộc lốc:
- Không biết là
cái gì? Hình như là viên đá thì phải...
Vị hưu quan cũng
đã theo kịp bạn, đứng sát bên mình thầy địa lý, rồi cả hai cùng nghiêng đầu,
phóng một lượt bốn luồng nhởn tuyến, theo đà chuyển động của lưỡi mai sắc bén
sáng ngời. Anh lực điền bỗng quăng chiếc mai lên mặt đất, cúi rạp người xuống,
lấy tay bới những mảnh đất vụn, gạt ra chung quanh, để lộ ra một màu trắng đục,
khác hẳn màu đất thịt pha trộn cát sỏi ở phía trên.
Hai ông già bất
giác cùng reo lên một lượt.
- Đúng là có
tảng đá thật rồi.
Trong lúc tên
gia nhân phủi tay đứng thẳng dậy, nhìn hai người như có ý thăm hỏi anh ta phải
làm gì bây giờ, thì thầy địa lý đã dõng giạc nói to:
- Cứ trông qua
tình hình, tảng đá này chắc cũng khá to, chứ chẳng phải tầm thường đâu? ta bắt
buộc phải đào lên cho kỳ được để bỏ đi, thì mới có thể trồng được cành cây vào
đúng nơi có long mạch quy tụ.
Vậy chú em hãy
chịu khó đào rộng ra chung quanh, theo diện tích tảng đá xem sao?
Người lực điền
không nói gì, lẳng lặng quơ ngay lấy cái mai, cặm cụi làm theo lời sai khiến
của nhà phong thủy.
Bề mặt phía trên
tảng đá không to lắm như sự tiên đoán của thầy địa lý, vì tên gia nhân chỉ đào
rộng ra bốn phía, bằng diện tích một cái thúng lớn, đã thấy lộ ra đầu một tấm
bia đá.
Hắn lại tiếp tục
đào sâu xuống, bới gạt đất sang hai bên để moi hẳn tấm bia lên.
Hai Ông già thấy
dưới lòng đất khu Phụng Hoàng Hàm Thư có tấm bia đá, biết trước là sẽ có những
chuyện bất ngờ kỳ dị lạ lùng sắp xảy ra, nên cũng mất hết vẻ mệt nhọc, uể oải
lúc trước, nhìn chòng chọc cả xuống hố sâu, theo dõi từng tảng đất của người
lực điền sắn ra.
Đào sâu thêm
chừng ngót một thước nữa (thước ta) thì tên gia nhân có vẻ thấm mệt, mồ hôi
chảy giòng giòng trên hai gò má, chiếc áo cánh nâu dày cộm ướt sủng như vừa
ngâm dưới nước đem lên, anh ta thơ phì phò, dồn dập in hệt người vừa bắt buộc
phải nín hơi, để vận dụng hết sức lực, chạy thi một quảng đường dài!
Tên gia nhân
chống cán mai, đứng lặng người nhìn sửng tấm bia đá như muốn ước lượng xem bề
sâu của nó còn độ bao nhiêu nửa, rồi thẩn thờ đưa cặp mắt ngao ngán nhìn trộm
chủ nhân.
Vị hưu quan bất
chợt bắt gặp cái nhìn thất vọng, mệt mỏi ấy của người lực điền, hiểu ngay tâm
trạng anh ta, liền nói với nhà phong thủy:
- Cứ xem qua tấm
bia, lão phu tin chắc rằng nó còn được chôn sâu hơn nhiều nữa! Mà tên gia nhân
thì lại có vẻ mệt mỏi lắm rồi! Vì vậy, lão phu thiết tưởng chúng ta nên tạm
hoãn việc làm trong chốc lát, để cho nó về nhà, gọi thêm vài người nữa ra giúp
sức.
Như thế, có lẽ
vừa chóng xong, lại vừa đở cho tên gia nhân được một phần nào sự nhọc nhằn vất
vả.
Tuy nóng ruột,
muốn biết ngay xem tấm bia đá có những chữ chi kỳ lạ, nhưng trước những lời lẽ
chí lý, rất xác đáng của vị hưu quan, nhà phong thủy tự xét, không còn có một
giải pháp nào khác, đành phải miễn cưỡng gật đầu.
Quan Án Sát liền
vỗ vai người lục điền, giọng thân mật:
- Mi khá về trong
nhà, kêu ra đây hai người nữa, với đủ các thứ thuổng, cuốc, nghe! Mau lên, kẽo
mặt trời sắp xế bóng rồi đấy!
Tên gia nhân, dạ
một tiếng rồi lanh lẹ nhảy khỏi miệng hố sâu, vừa đi vừa rủ những lớp đất cát
bám đầy bộ quần áo nâu dày cộm!
Thầy địa lý kín đáo, liếc trông vị hưu quan, đang đi đi, lại lại chung quanh chiếc hố đào dở, mắt không rời khỏi tảng đá nằm im lìm ở giữa đống đất ngỗn ngang.
Thầy địa lý kín đáo, liếc trông vị hưu quan, đang đi đi, lại lại chung quanh chiếc hố đào dở, mắt không rời khỏi tảng đá nằm im lìm ở giữa đống đất ngỗn ngang.
Lão hiểu rõ hơn
ai hết, sự nóng lòng, sốt ruột của quan Án Sát hưu trí!
Vì mới mấy giờ
trước đây, không nghe lão tỏ ý lo ngại về nạn đất rắn, không thể nào, chỉ dùng
tay không mà trồng nổi được hai cành cây xuống tận nơi có long mạch đang quy
tụ, vị hưu quan cũng nhất định không chịu nghe lời, cứ cương quyết đòi trồng
ngay cho kỳ được.
Nhưng loay hoay,
soay sở mãi, hai cành khô vẫn nghiêng ngã muốn đè rạp cả về phía trước, khiến
ông ta cuống quít, phải vội vàng dùng gót chân, nện mạnh chung quanh gốc cây
khô, mong nó có thể đứng vững được.
Nhưng chỉ trong
chớp mắt, nó lại lảo đảo theo chiều những cơn gió giật và cuối cùng bật tung
hẳn lên, kèm theo ít mảnh đất vụn!
Thấy đã tốn
công: Ba lần trồng xuống mà cả ba lần đều bật tung cả lên, vị hưu quan mới chịu
trở về gọi người nhà ra giúp sức.
Vậy mà có ai ngờ
đâu, đất nơi đây chẳng những đã pha cát sỏi, rắn chắc như gạch ngói, mà mới đào
hố tới nửa chừng, lại còn gặp phải một tảng đá khá to ngăn chận, khiến cho một
tên gia nhân lực lưỡng, vẫn không đủ sức làm được trọn vẹn công việc: đào tấm
bia đem lên cho mọi người xem, để lấy chỗ trồng cành cây khô, thử coi chỗ này
có long mạch thật không, hay đó chỉ là lời ức đoán vu vơ của nhà phong thủy?
Phải cho tên gia
nhân chạy về kêu thêm hai hay ba người khỏe mạnh nữa đến giúp sức, thầy địa lý
hiểu rõ nỗi khổ tâm của vị hưu quan trong sự đợi chờ bất đắc dĩ này lắm, vì mộ
chủ rất băn khoăn về những việc xãy ra, nhất là muốn biết ngay tức khắc xem tấm
bia kỳ lạ kia có viết những chữ gì? Liệu có liên can chi tới sự kết phát của
dòng họ Nguyễn hay không?
Quan Án Sát hưu
trí đi quanh chiếc hố đào dỡ không biết đã đến mấy chục vòng rồi, mà trí óc
hình như vẫn còn trĩu nặng niềm ưu tư, phiền muộn, nên ngao ngán, tiến đến bên
cạnh nhà phong thủy, hỏi vội, sau một tiếng thở dài não nuột:
- Lão trượng
tính sao về tấm bia quái dị kia? sao nó
lại nằm trong khu vực an táng mộ phần họ Nguyễn Liệu nó có dính líu chi đến kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư không? Do ai khắc bia với chôn bia hở lão trượng?
lại nằm trong khu vực an táng mộ phần họ Nguyễn Liệu nó có dính líu chi đến kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư không? Do ai khắc bia với chôn bia hở lão trượng?
Trước những câu
hỏi dồn dập, đượm vẻ lo âu, băn khoăn đến tột độ của vị hưu quan, nhà phong
thủy như cảm thấy ái ngại, rồi bất giác, nắm chăt lấy bàn tay khẳng khiu, nóng
hỏi như bàn tay một người đang lên cơn sốt trầm trọng mà an ủi rằng:
- Đại nhân bất
tất phải băng khoăn; thắc mắc làm chi cho hao tổn tinh thần. Bất cứ việc gì, dù
lớn nhỏ tầm thường hay quan trọng đến đâu, cũng đều do sự an bài của Tạo hóa,
thu gọn trong luật nhân quả của Phật Trời!
Sức người dù
mạnh thế nào, cũng không sao cưỡng lại được
Việc phải đến,
sẽ đến! Người hiền lương có bao giờ gặp phải tai ương đâu? Dòng họ Nguyễn, từ
bao đời nay, được nối tiếp hiển vinh, dù là bằng cớ hiển nhiên do âm công tích
thiện của các Cụ nhà ta ngày xưa cấu tạo nên!
Đại nhân có thể
vững tin vào đấy, mà trau dồi tô điểm thêm cho âm đức được cao dày hơn nữa thì
lo gì con cháu không được nối đời hưởng thụ giàu sang!
Quan Án Sát hưu
trí, tươi nét mặt hớn hở tạ rằng:
- Đội ơn lão
trượng chỉ dạy, lão phu như người đang đi trong đêm tối, được vén mày trong
thây thái dương! Nhờ có những lời vàng ngọc ấy, từ nay lão phu có thể vui sống
theo số mạng, lấy việc tu thâu, tích đức làm phương châm duy nhất và lẽ sống
tối thượng ở đời, hy vọng con cháu sau này, nở mày, nở mặt được với thiên hạ!
Hai người còn
đang mải mê đàm đạo, thì từ xa, ba người lực điền đã vác cuốc, vác thuổng lần
theo con đường đất gồ ghề ra khỏi cổng làng rồi men bờ ruộng, lầm lủi đi tới.
Ra đến nơi, mấy
chú gia nhân, không chịu bỏ phí một giây phút nào bắt tay ngay vào công việc,
phân công nhau kẽ đào đất người xúc đất lên miệng hố.
Chỉ chừng đầu
giờ Thân, toàn thể tấm bia đá phơi hẳn mình dưới ánh hoàng hôn êm dịu.
Nhưng ba người lực điền bỗng cùng một
lúc kêu lên hoãng hốt:
Ô hay, Sao lại thế này ? Không phải chỉ có một tấm bia mà thôi đâu? Hình như còn có cả một tảng đá lớn nữa, nằm ngang ở dưới đáy này các Cụ ạ!
Đến đây Trang 17
Ô hay, Sao lại thế này ? Không phải chỉ có một tấm bia mà thôi đâu? Hình như còn có cả một tảng đá lớn nữa, nằm ngang ở dưới đáy này các Cụ ạ!
Đến đây Trang 17
Hai ông già cùng
nhảy vội xuống hố, cúi rạp mình quan sát, thì thấy rõ ràng tấm bia, bề cao độ
thước rưỡi (ta), bề ngang chừng một thước, được đặt dựng đứng trên một phiến đá
to hơn nhiều.
Chân bia được
lồng hẳn vào phiến đá lớn, bằng một lỗ đục vừa vặn, như người đóng mộng kẹp
vào, mà đất cát, qua năm tháng thời gian, đã nêm chặt lại, vững vàng, kiên cố
còn hơn gắn bằng các chất vôi cát pha trộn với mật, mà các cụ ngày xưa thường
dùng xây cất nhà cửa, bể đựng nước v.v...
Mấy chú lực điền
xúm nhau lại, mím môi nín thở cùng vận dụng toàn lực cố lay tấm bia, định nhắc
bổng hẳn lên trên mặt đất, nhưng vô ích, tấm bia vẫn đứng trơ không nhúc nhíc,
hàn gắn liền với khối đá nằm ngang, toàn thể chỉ là một phiến, được chia ra làm
mấy bộ phận khác nhau.
Với dáng điệu
bồn chồn khắc khoải của một người nóng nảy, vị hưu quan không cần câu nệ, giữ
gìn phong độ oai nghiêm, bệ vệ lúc thường nhật, ngồi xổm luôn dưới hố sâu, lấy
tay thoa đi, thoa lại nhiều lần lên mặt tấm bia, cố ý muốn đọc ngay những dòng
chữ chi chít, ghi trên, xem người chôn bia viết những gì, có dụng ý gì mà lại
chịu tốn công, chôn tấm bia một cách cực kỳ bí mật như thế?
Song mặc dầu đã
lau chùi rất kỹ lưỡng, hai bàn tay gầy đét nhăn nheo, chỉ còn trơ da với xương
của quan Án Sát hưu trí, lại bị đỏ ửng, sưng phồng lên nhiều chỗ vì bị cọ sát
mạnh trên một vật cực kỳ cứng rắn, vị hưu quan vẫn không sao đọc được chữ nào,
ví ánh sáng buổi hoàng hôn dưới hố sâu, không đủ soi rõ những hàng chữ đục trên
đá, mà hầu hết những nét ngang dọc, chấm phảy đều bị bùn đất che lấp, sờ lên
chỉ thấy nhẳn lỳ và mát rượi, cơ hồ như một tấm ván mới được bào gọt rất tinh
vi kỹ lưỡng!
Đứng vụt thẳng
người lên, quan Án Sát lắc đầu, nói qua giọng tức bực:
- Không đọc nổi
chữ nào hết! bây giờ bọn mình phải ráng sức, đào rộng và sâu thêm chút nữa đi!
Mau tay lên kẽo không kịp đó!
Ba chú lực điền,
thấy chủ cau có, cũng có ý sợ hải, vội hè nhau tiếp tục làm việc.
Với tất cả sức
cố gắng, bọn gia nhân cũng hăm hở, kẻ đào, người xúc, chẳng chút nề hà, quản
ngại, nên chỉ một lát sau, toàn thể tảng đá đã lộ hẳn ra.
Thì ra đó là một
con rùa khá lớn tạc bằng một phiến vân thạch tuyệt đẹp, mà trên mai rùa, có đục
một lổ thủng, vừa vặn đủ chỗ để đặt tấm bia.
Phải tốn nhiều
công phu, mãi tới gần tối, sáu người lực điền mới đem được "con rùa đội
tấm bia đá" lên khỏi hố sâu, để sau khi lấy nước lau chùi thật sạch sẽ kỹ
lưỡng, quan Án Sát và thầy địa lý mới sai gia nhân đốt đuốc lên, để cùng đọc
những hàng chữ viết theo đủ các kiểu: chân, thảo, triện, lộ, nét bút tung hoành
như rồng bay, phượng múa!
Dưới ánh mấy bó
đuốc làm bằng nhựa thông, bốc cháy ngùn ngụt, soi sang cả một vùng đồng ruộng,
gò đống chập trùng, thầy địa lý cất cao giọng đọc:
"Ngũ bách niên chi tiền, mạch tại
thượng"
"Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ"
"Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"
"Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ"
"Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"
Phía dưới có mấy
hàng chữ nhỏ:
"Dương Đức nguyên niên"
"Thanh Lã bi ký".
"Thanh Lã bi ký".
Đọc xong mấy
hàng chữ trên bia, quan Án Sát hưu trí mỉm cười, liếc mắt nhìn trộm thầy địa
lý.
Nhưng nhà phong
thủy, ngay từ khi mới được đọc hết mấy hàng chữ lớn, đã đỏ bừng mặt mày, mồ hôi
ướt đẩm trán mặc dầu gió đêm ở cánh đồng mông mênh hiu quạnh, thổi tới ào ào
lạnh buốt, làm tê dại cả thịt da những thanh niên cường tráng!
Lão lẩm bẩm:
- Hừ! Lạ thật! Thế này là nghĩa lý gì?
Chẳng lẽ cụ Thanh Lã từ mấy trăm năm trước, lại có thể biết được đích xác là
long mạch kiểu đất Phụng Hoàng hàm Thư bắt đầu từ ngày này, tháng này, năm này,
lại di chuyển từ trên cánh đồng cao quy tụ xuống cả dưới ruộng thấp sao?
Thật là khó hiểu!
Thật là khó hiểu!
Nhà phong thủy
cứ lầm bầm đọc đi, đọc lại mãi mấy hàng chữ trên tấm bia, trí óc hoang mang,
vấn vương trăm ngàn cau hỏi, cơ hồ lãng quên cả những người đứng chung quanh.
Cho mãi đến lúc
quan Án Sát lên tiếng hỏi, lão mới gật mình, bâng khuâng như đang chìm đắm
trong một giấc mơ quái dị.
Lão trượng nghĩ
sao về tấm bia này? Chẳng lẽ cụ Thanh Lã, từ mấy trăm năm trước, đã tiên đoán
được sự di chuyển long mạch, từ trên cao xuống dưới thấp sao?
Thầy địa lý ngơ
ngác nhìn bạn đáp bằng giọng cáu kỉnh, tức bực:
- Thì bằng cớ
hiển nhiên đấy rồi, Đại nhân còn nghi ngờ chi nữa! Cụ Thanh Lã năm xưa, nếu
không biết rõ ràng thế vận chuyển của long mạch, thì sao cụ lại bí mật chôn tấm
bia này, để gián tiếp báo cho người đời biết rằng: từ mấy trăm năm trước cũng
đã có một vị thánh sư địa lý, quán triệt địa lý của luật âm dương, thông suốt
được sư hưng vong, thịnh suy, bỉ thái của các dòng họ...
Đoạn thở dài não
nuột, nhà phong thủy chép miệng, vừa lắc đầu, vừa ngao ngán nói tiếp:
- Lão nghĩ lại
mà thấy hổ thẹn vô cùng! Mình tài học vốn không bằng ai, sự hiểu biết lại cũng
chỉ thu hẹp trong phạm vi mấy cuốn sách: chi hồ giả giả, cũ rích, vậy mà trong
lúc bồng bột sôi nổi, lại dám lớn tiếng chỉ trích, chê bai cả cổ nhân, tài
năng, đức độ, xứng đáng là bậc thầy của mình, thì quả thiệt là mình ngu dốt lạ
lùng, nếu không phải là đứa ngông nghênh thì cũng chẳng khỏi mang tiếng cuồng
ngôn, loạn ngữ, làm trò cười cho người thức giả!
Rồi, vò đầu, bứt
tai, mắt môi đỏ gay như người say rượu, thầy địa lý lầm bầm như chỉ nuốn nói
riêng với chính mình:
- Hừ! thiệt
không còn trời đất nào?
Mình ngốc nghếch
đã chẳng tự biết thân, lại dám công khai mở miệng phê bình người tìm được kiểu
đất Phụng Hoàng Hàm Thư là đồ mù, đồ hữu nhãn vô châu, thì hỏi còn gì điên rồ
hơn nữa không?
Như chợt nhớ tới
một điều gì quan trọng, thầy địa lý vội cúi sát đầu gần chạm mặt tấm bia đá,
hai ba lần giụi mắt chăm chú, đọc đi, đọc lại câu cuối cùng:
"... Vị
thùy vô mục, quả vô mục dã " Rồi lại lẩm bẩm tự hỏi :
- Thế là nghĩa
thế nào? Người viết văn bia có dụng ý gì, khi trách thiên hạ bảo mình mù rồi
lại chính tự nhận mình là... không có mắt thiệt?
Sao lại có
chuyện rắc rối kỳ dị như vậy? Khó hiểu quá trời đất ơi!
Thấy người bạn
già đột nhiên đổi hẳn thái độ, đang hiền hòa vui vẻ, bỗng biến thành buồn
phiền, ủ rủ, hết nói lẩm bẩm một mình, lại đến kêu trời, kêu đất, giọng điệu
cực kỳ chán nản, thì kinh ngạc, nhìn sửng nhà phong thủy với nét mặt lo âu, sợ
hải, rụt rè, mãi mới dám đặt nhe bàn tay khẳng khiu của mình lên trên vai bạn,
dịu dàng cất tiếng:
- Lão trượng có
điều chi bất như ý, mà thần sắc lại vụt biến đổi nhanh chóng dị thường như thế?
Vào cở tuổi chúng mình mà lo buồn thái quá lão trượng há không sợ hao tổn tinh
thần sao?
Thầy địa lý có
vẻ xúc động trước sự săn sóc chu đáo của bạn cũng vội đưa bàn tay run run xiết
chặt lấy cánh tay của vị hưu quan, như muốn biểu lộ niềm thâm cảm sâu sa, rồi
mới chậm rải trả lời:
- Lão không buồn
phiền sao được khi nhớ tới thái độ ngạo mạn, và lời nói hổn xược của mình hôm
trước trong lúc đại nhân đưa lão đi phúc lại mấy ngôi tổ mộ ở cánh đồng xứ Cốt
Đang?
Đem rìu múa rối
ở trước cửa Lổ Ban, lão đã làm một việc rất vô ý thức, mà nếu lọt tai các bạn
đồng nghiệp, lão tránh đâu cho khỏi mang tiếng là người thiển cận?
Lão không còn
biết làm cách nào, để có thể tạ tội được với cổ nhân?
Mà nào đã hết
đâu? Mấy câu đầu khắc trên bia đá, nói về sự chuyển dịch của long mạch: năm
trăm trước long mạch quy tụ ở trên cao, còn năm trăm sau, long mạch lại quay
chiều, quy tụ ở dưới thấp, thì ý nghĩa đã rõ ràng lắm rồi!
Chẳng cứ chúng
ta, mà có thể nói là bất cứ ai ai, một khi đã học hết cuốn Tam Tự Kinh, cũng
đều hiểu được rành mạch ý nghĩa của văn bia. Nhưng còn câu nói cuối cùng thì
sao?
Đại nhân thử đọc
kỹ lại một lần nữa, rồi cho lão phu biết qua tôn ý?
Vị hưu quan
không nói gì, cẩn thận đọc từng chữ, như cố tình nghiền ngẩm toàn thể bản văn,
muốn tìm một ý nghĩa xác thực về câu cuối cùng, xem nó có liên quan gì đến khu
đất quý có táng tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn ở làng Báo Văn không?
Nhưng không?
Càng đọc, quan Án Sát càng đi sâu vào sự bâng khuâng, hoang mang, chẳng biết
đâu mà phỏng đoán nữa.
Nếu nói rằng
thiên hạ bảo người tìm được kiểu đất Phung Hoàng Hàm Thư là...mù, không biết
long mạch quy tụ ở phía ruộng thấp, lại đem táng một lúc cả tám ngôi tổ mộ ở trên
đồi cao, hai địa điểm dù chỉ cách nhau vài sải tay, song ảnh hưởng kết phát,
nếu đúng như lời tiên đoán, sẽ khác biệt nhau một vực, một trời, nhưng sao
chính thầy địa lý, người tìm được kiểu đất ấy cũng tự nhận mình không có mắt !
Thật là vô cùng
kỳ dị, khó hiểu lạ lùng!...
Làm nghề gì mà
thiếu cặp mắt tinh tường cũng còn không phân biệt được sự xấu tốt, đẹp đẻ, hay
thô sơ, chứ một khi đã đi tìm đất để mả cho thiên hạ mà không may lại bị mục
tật, hai mắt không trông thấy thì còn biết đâu là tay long, tay hổ, nơi nào là
chánh huyệt để ban phước lành cho mộ chủ? Vậy mà trên văn bia, chính nhà phong
thủy, sau khi phiền trách thiên hạ bảo mình là "đồ không có mắt" lại
củng tự nhận luôn mình quả nhiên không có mắt thật thì còn biết thế nào mà xét
đoán nữa?
Trong lúc hai
ông già mãi suy nghĩ trầm ngâm về ý nghĩa mấy câu văn bia hóc hiểm, mà chưa tìm
được một lời giải đáp nào khả dĩ gọi là vững vàng, chắc chắn, thì đám thanh
niên trong dòng họ Nguyễn, ngồi xúm quanh con rùa đá, người thì tò mò lấy luỡi
dao nậy đất ở chung quanh chân tấm bia, người thì đưa tay vào mồm rùa, sờ nắng
coi có chi khác lạ ở phía trong không, chàng trai thứ ba chợt đưa tay lay mạnh
tấm bia, thấy tấm đá nặng nề chuyển động thì kêu lên sững sốt:
- Tấm bia chỉ
gắn trên mai rùa thôi, chứ không phải là một khối nguyên vẹn với con rùa đâu?
Nghe chàng trai
này nói thế, thanh niên đang dùng lưỡi dao nạy đất ở chân tấm bia, vội nhanh
tay cạo mạnh thêm.
Đồng thời, tên
gia nhân kia cũng tiếp tay, giúp sức bạn.
Chỉ trong chốc
lát, họ đã lấy ra được tất cả đất bùn, cát sỏi, bám chặt dưới chân bia, nên tấm
đá đang dựng đứng, bỗng nghiêng hẳn về phía trước.
Ba thanh niên
vội đứng vùng dây, đở lấy tấm bia, khiêng đặt ra bên cạnh.
Trên mai rùa
lớn, lúc bấy giờ, để lộ ra một hóc to đen ngòm.
Thầy địa lý
không mãi mê theo dõi những dòng chữ trên văn bia, mà lại cúi đầu nhìn xuống
mai rùa.
Chợt lão thò tay
vào hóc sâu, lôi ra một ống đồng dài chừng hai gang, chung quanh sét rỉ, nham
nhở, chứng tỏ chiếc ống này nằm trong lòng rùa đá cũng khá lâu ngày!
Loay hoay mãi,
thầy địa lý vẫn không sao mở được nắp chiếc ống đồng qúai dị, chỉ không to hơn
miệng cái chén cỡ trung bình, nhưng sét rỉ lại bám đầy, không còn phân biệt
phía nào là đáy, phía nào là nắp nữa.
Một chàng trai
đứng gần đấy, thấy thế, liền lễ phép xin lão trao lại mình chiếc ống, để anh ta
dùng đá sỏi đánh kỹ lên lớp đồng hoen rỉ thì có thể mở được dễ dàng.
Quả nhiên chỉ
trong chốc lác, chiếc ống đồng bẩn thỉu, nhơ nhớp đã biến thành một chiếc ống
xinh xắn với nước đồng bóng lộn, sáng như gương, làm nổi bật một đường hằn nhỏ
như sợi tóc, ngăn cách hai phần: nắp và đáy chiếc ống!
Thầy địa lý phải
lấy lưỡi dao mỏng, luồn theo đường hằn nhỏ kia, để cạo dần những đất cát bám ở
phía trong, hầu như được kết tụ lại có vẽ rắn chắc, không kém gì một chất nhựa
đặc biệt, mà cổ nhân vẫn dùng để hàn gắn các loại kim khí, hay đồ sành sứ vậy!
Khi chiếc nắp
đồng được bật tung ra, hai ông già lại càng kinh ngạc hơn nữa, vì người nào
cũng yên trí rằng sẽ được trông thấy một bảo vật kỳ lạ chi đó ở bên trong. Nào
ngờ đâu phía trong lại chỉ có một chiếc ống tre già nữa, bọc sáp khá dày, bao
quanh khúc tre giống hệt như ruột khúc cây bào gọt nhẳn nhụi.
Mọi người truyền
tay nhau xem xét khúc cây rất kỹ lưỡng một lúc lâu, mới lấy dao, gạt bỏ lớp sáp
ngoài, đễ lộ ra một lần giấy bẩn phết nhựa cây và nhựa sơn đen kịt, láng bóng
như quang dầu.
Trong lúc thầy
địa lý còn đang ngấm nghía, muốn tìm đầu mối của cuộn giây nhựa để mở ra cho
dể, thì vị hưu quan chừng như nóng ruột, không thể nào chờ đọi được lâu nữa,
liền mạnh tay dằn lấy lưỡi dao của chàng thanh niên đứng kế cận vạch thẳng một
đường dài từ trên xuống dưới.
Lớp giấy sơn dày
tới nửa ngón tay theo đà cắt của lưỡi dao, mở tung ra, để lộ màu nâu sẩm của
chiếc ống tre, mà qua năm tháng thời gian, đã không còn giữ được màu xanh tươi
thuở ban đầu
Đó là một cái
ống quyển thô sơ, mà ngày xưa người ta thường dùng, để cất giữ những giấy tờ
cần thiết như văn tự hay gia phả của dòng họ.
Các thầy khóa
thời mực tàu, giấy bản cũng dùng ống quyển để đựng kinh sách. Nhiều người còn
chăm lo cho chiếc ống quyển của mình một cách cực kỳ mỹ miều, diêm dúa như sơn
đỏ, kẻ một vài đường kim nhũ hay ngân nhũ ở trên nắp.
Nắp chiếc ống
quyển bằng tre già được mở ra, vị hưu quan vội đưa hai ngón tay vào, nhẹ nhàng
nhưng thận trọng, lôi ra cuốn sách cuộn dài theo chiều chiếc ống quyển.
Thấy dáng điệu
nóng nảy, hấp tấp của quan Án Sát, nhà phong thủy cười thầm, càng chăm chú theo
dõi hành vi của bạn.
Vị hưu quan cầm
cuốn sách không dày lắm lên tay một cách trìu mến, lật ngược, lật xuôi xem xét
rất cẩn thận thì thấy hai tấm bìa bồi rất công phu, toàn phết bằng nhựa cây,
dày cứng như mo cau.
Cố đưa về phía
trước mặt, để đọc qua mấy hàng chữ ghi ở trang đầu, nhưng quan Án Sát đành thở
dài, buông thỏng tay xuống, vì ánh sáng không đủ chiếu rõ những hàng chữ nhỏ,
mà muốn đọc, quan Án Sát cần phải có một thứ kiếng riêng chỉ dùng để xem sách.
Thầy địa lý ái
ngại an ủi:
- Đại nhân để về
nhà rồi chúng ta coi, cũng không muộn gì?
Điều cốt yếu, ta
nên cho khiêng luôn cả con rùa đá với tấm bia này về làm kỹ niệm, để ghi nhớ
một giai thoại liên quan đến kiểu đất dị kỳ, ít khi thấy trong môn phong thủy.
Thứ nhứt dinh
cơ, thứ nhì mồ mả!
Cuốn sách nhà
phong thủy tìm thấy trong mai rùa bằng đá, cùng với tấm bia của vị thánh sư địa
lý Thanh Lã, chôn vùi trong khu vực kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư: nơi an táng
tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn ở làng Báo Văn, ngoài sự ghi chú rành mạch về
phương hướng chuyển vận long mạch, từ trên cao xuống dưới thấp, trong mỗi thời
hạn năm trăm năm, còn biên chép thâm cả tiểu sử và vận hạn của vị thánh sư địa
lý, từng nổi tiếng là kỳ tài trong thiên hạ từ bấy giờ.
Vị hưu quan càng
đọc thêm phụ chú nói về tai họa của Cụ Thanh Lã, vì nhà phong thủy trứ danh về
đời Lê, không những đã có biệt tài tìm đất, để mả, mưu hạnh phúc giúp người
đời, khiến cho nhiều gia đình đang nghèo khổ, khốn quẫn, nhờ có một ngôi mả kết
phát, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã có thể võng lọng nghênh ngang, ngựa
xe đủng đỉnh, bạc vàng đầy đủ, danh giá lẫy lừng, mà còn có tài để hướng nhà
cũng linh nghiệm, có khi còn hay hơn cả việc an táng hài cốt người quá vãng!
Một ngôi dinh cơ
khoáng đảng, tả hữu, tiền hậu có đủ những cảnh trí thiên nhiên, tốt tươi đẹp
đẽ, nóc nhà nhờ thầy địa lý chính tông đặt cho thật đúng chỗ, đúng hướng, cổng
mở phải phép, bếp làm đúng kiểu thì nhât định sự kết phát không còn là chuyện
hoài nghi, viễn vong nữa.
Chính vì vậy, mà
các cụ nhà ta ngày xưa, mới có câu cửa miệng: "Thứ nhất dinh cơ, thứ nhì
mồ mả"!
Nhưng thường
tình thiên hạ, người ta phần nhiều chỉ chú trọng vào việc mồ mả, lo tìm kiếm,
xây đắp mộ phần cho ông bà, cha mẹ thật chu đáo, chứ chẳng ai nghĩ tới sự tìm
đất làm nhà, mặc dầu thanh niên nào, khi lập gia đình, cũng phải cố xây dựng
cho kỳ được, một mái nhà, vừa để làm tổ ấm uyên ương cho đôi vợ chồng son mới cưới,
vừa để tập cho quen một đời sống tự lập, không cần đến sự giúp đỡ của cha mẹ,
anh em!
Nói thế, không
có nghĩa là người ta làm nhà cẩu thả, thích hướng nào làm hướng ấy đâu?
Mà sự thực,
người ta cũng xem xét kỹ lưỡng lắm, nào là chọn ngày đổ nền, khởi công đào
móng, nào là nhờ người cất nóc, trấn yểm quỷ quái, tà ma! nếu gặp phải một ngôi
nhà nào khác, hay đình, chùa đền, miểu chi đó, đâm thẳng vào giữa nhà mình, gia
chủ còn phải rước thầy về cúng vái yểm trừ bằng một lá bùa bát quái hay một tấm
gương nhỏ có thư phù cẩn thận đặt đúng ngay vào nơi phản chiếu với chướng ngại
vật nọ!
Nhưng công việc
tìm kiếm nền nhà, xây dựng tường mái, dù thận trọng đến đâu, so với sự an táng
hài cốt người quá vảng, cũng vẫn bị thua kém xa.
Sự kiện ấy, cũng
không có gí là lạ, khi người ta quan niệm rằng: kiếp sống của con người chỉ là
một chuổi ngày tạm bợ, phù du, dù cho vua chúa, khanh tướng, công hầu, phu
nhân, mang phụ hay cùng đinh, phú hộ, đến khi tắt thở, nhắm mắt buông tay cũng
phải trở về với cát bụi, bỏ mặc trên trần thế tất cả tiền bạc, của cải.
Lúc đó, mới là
nơi an nghĩ vĩnh viễn theo đúng lời thánh hiền truyền lại: sinh ký tử quy, dich
nôm là ("sống gửi thác về").
Mớ tàn cốt chôn
sâu dưới đất, vì thế mới có liên hệ mật thiết với những thân nhân trên dương
thế.
Hài cốt an táng
ở một địa điểm mát mẻ, có cảnh trí kỳ tú bao quanh, thì con cháu cũng được mát
mặt phong lưu.
Trái lại, nếu
phần mộ nằm vào nơi u uất, như chôn giữa vùng đất vôi, hoặc có rễ cây, đâm từ
trên cao xuống, làm thương tổn đến tiểu đựng hài cốt, thì thế nào thân nhân
cũng gặp phải tai họa nặng nhẹ tùy theo số mạng và trường hợp mộ phần bị động
trệ!
Hơn nữa do tinh
thần tôn trọng tổ tiên, theo tục lệ cổ truyền bất di, bất dịch của Đông phương,
các cụ nhà ta ngày xưa đã coi việc săn sóc mộ phần tổ tiên như một bổn phận
thiêng liêng của bất cứ ai trong dòng họ.
Nhiều người
không may làm ăn bị thất bại, có thể lìa bỏ dễ dàng cửa nhà, để đi nơi khác lập
nghiệp. Nhưng họ lại rất băn khoăn, tỏ vẻ đau đớn vô cùng, khi phải xa cách
phần mộ tổ tiên, không còn được tới thường, săn sóc, chăm nom đến nơi an nghỉ
cuối cùng của người quá vãng nữa!
Thiên hạ thường
tin tưởng mãnh liệt rằng: chỉ khi nào những linh hồn dưới chính suối được an
nghĩ mát mẻ thì thân nhân nơi trần tục mới có thể lạc nghiệp an cư!
Nhiều giai thoại
về mồ mả kết phát hay động trệ, đã được truyền tụng, phổ biến khắp noi, để
chứng minh cho lẽ huyền bí kỳ dị của môn địa lý!
Cuốn sách tìm
được trong mai rùa đá, không phải là thủ bút của cụ Thanh Lã, tác giả tấm Văn
bia, được chôn trong khu đất Phụng Hoàng Hàm Thư từ năm Dương Đức đầu tiên
(nhằm đời vua Lê Gia Tôn), mà chính do tổ phụ quan Án Sát họ Nguyễn sưu tầm,
ghi chép, để người đời sau biết rõ đức tài lỗi lạc, trí óc siêu việt của một vị
túc nho, quán thông kim cổ, không may bị nhà vua nghi ngờ, kết tội khi quân,
đến nổi uổng phí cả một kiếp hào hoa, phong nhả!
Cứ theo mấy lời
ghi chú mở đầu trong cuốn sách, thì sau khi tìm giúp được cho dòng họ Nguyễn ở
làng Báo Văn khu đất Phung Hoàng Hàm Thư, để an táng tám ngôi tổ mộ, Cụ Thanh
Lã có tiên đoán số phận đen tối của mình cho mọi người biết.
Dân làng, nhất
là tổ phụ họ Nguyễn thuở ấy, không một ai chịu tin là có thể xãy ra việc đó. Cụ
Thanh Lã thấy mọi người tỏ ý hoài nghi, tức mình quá, liền mướn thợ đá, khắc
một tấm bia, nói rõ sự chuyển hướng long mạch từ trên cao xuống dưới thấp, và
không quên nhấn mạnh cả lời chê bai của thiên hạ: sẽ có người bảo mình là đồ
không có mắt, nên tuy làm nghề địa lý mà lại không biết rõ nơi nào quy tụ long
mạch!
Đồng thời vị
thánh sư địa lý dưới triều Hậu Lê, cũng nhận luôn là mình ... không có mắt thật
sự!
Nhưng tại sao
lại có sự tiên đoán kỳ dị ấy?
Đó là cả một
thiên thảm tử vô cùng đau thương, mà tổ phụ quan Án Sát họ Nguyễn đã dụng công
ghi chép, hai mươi năm sau, khi tám ngôi tổ mộ, do cụ Thanh Lã táng giúp đang
bắt đầu kết phát, còn Cụ thì bị tai hoạ khốc liệt, tàn phế trọn đời.
Nguyên thuở
thiếu thời, Thanh Lã tiên sanh, vốn tài cao học rộng, kiến văn quảng bác, nhưng
tâm tính hào sảng, quanh năm chỉ thích lê gót giang hồ đi khắp đó đây, mong tìm
gặp bạn rượu thơ tri kỷ: chớ không nghĩ đến sự giùi mài kinh sử, để tranh lèo
giật giải với sĩ tử bốn phương!
Vì vậy mấy lần
mang lều, xách chõng vào trường thi, vị túc nho, dù văn chương thi phú có thừa,
mà phận hẩm, duyên hôi, cả mấy bận đi thi đều không thấy có tên ghi trên bảng
hổ!
Người nào thi
rớt mà không buồn phiền, tủi hận?
Chỉ duy có Thanh Lã tiên sanh là không tỏ ý chán nản hay âu sầu
chi hết, vì đối với tiên sinh, sự đậu, rớt đâu có phải là lẽ sống ở đời?
Nhiều bạn đồng
môn khi còn đi học, vẫn phải nhờ tiên sinh "gà" giúp cho những bài
kinh sách khó khăn không ngờ "học tài, thi phận" những thầy khóa
"dốt lòi đuôi" ấy, lại nhẹ gót thanh vân, thi đâu đổ đấy, dễ dàng như
người ta ăn cơm, uống nước vậy!
Một vài người
bạn thân của tiên sinh thấy thế, thường tỏ ý bất bình, cho rằng các quan chấm
trường thi, nếu chẳng có tư vị, thì cũng là những kẻ gà mờ không có mắt xanh,
phân biệt được hạt châu với mắt cá, nên mới không đủ tài thưởng thức những áng
văn chương xuất sắc, cũng như không biết gạt bỏ những bài văn viễn vong, rỗng
tuếch chẳng có một chút giá trị về văn chương cũng như về tư tưởng vậy!
Thanh Lã tiên
sinh chỉ cười, chắp tay cảm tạ thịnh tình săn sóc của bạn nhưng rồi lại yêu cầu
bạn không nên coi đó là một việc quan trọng có thể làm cho mình hao tổn tinh
thần!
Tiên sinh còn
nhấn mạnh: người nào được sanh ra trong trời đất, cũng đều có số mạng hết!
Số được làm quan
thì dù có ngu đần, dốt nát đến đâu, cũng được chểm chệ trên ghế phụ mẫu chi
dân, mặc dầu khi cắp sách đến trường chưa bao giờ đọc trôi một bài văn sách!
Trái lại, nếu
chỉ là số bạch đinh, thì dù trí cả, tài cao, học quán năm xe, làu thông kinh
sử, xuất khẩu thành chương, thấu triệt cổ kim, họ cũng không sao vào lọt được
cả ba trường, để hưởng thụ lộc nước, ân vua, áo bào, đai tía, xem hoa thượng
uyển, dụ yến vua ban, bái tổ vinh quy, được dân làng đón rước trọng thể như đón
rước một vị đường quan đi kinh lý.
Với lối sống
khoáng đạt của một vị quân tử nho, tiến không mừng, thoái không nãn thành công
không kiêu bạc, thất bại chẳng chịu hạ mình làm điều thương tổn đến giá trị nho
phong. Thanh Lã tiên sinh, sau mấy phen đua tài thử sức, trong trường văn, trận
bút, sẳn sàng lãng quên món nợ công danh, để lao mình vào công trình nghiên cứu
các môn nho, y, lý số, coi đó là môn giải trí duy nhất trên đời.
Càng tìm được
những cuốn cổ văn, giảng dạy về huyền vi của Tạo hóa, sự cấu tạo mầu nhiệm của
luật âm dương với bao nhiêu chi tiết biến ảo phi thường, hầu như ly kỳ, quái
đản, mê tín, hoang đường, tiên sinh càng say sưa, không quản ngại tốn kém, vui
lòng bỏ ra hàng trăm lạng bạc một lúc, để có mua cho kỳ được những áng cổ văn
hiếm có của Trung Hoa, Nhựt Bổn, đem về ngày đêm khảo cứu, suy gẩm những lời
vàng ngọc của cổ nhân.
Ngoài ra với
tinh thần cầu tiến, lúc nào cũng tha thiết học hỏi, một cách cần cù, khắc khổ,
tiên sinh mỗi khi nghe đồn nơi nào có thầy hay, bạn giỏi, là tức khắc tìm đến
tận chỗ, dùng hết phương kế để kết giao cho kỳ được.
Với bậc trưởng
thượng, tiên sinh vui vẻ, tôn kính như bậc sư phụ, phụng thờ có khi còn chu đáo
hơn cả mẹ cha, để mong được túc nho đạo đức ấy, truyền thụ cho cái học sở
trường.
Với những người
đồng trang lứa, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, tiên sinh niềm nở kết
liên, quý trọng như anh em ruột thịt.
Gặp bạn phong
lưu, phú quý thì chẳng nói làm gì, nếu người bạn mới bần hàn, khốn quẩn, tiên
sinh sẳn sàng chia sẽ bạc tiền, thóc gạo để anh em có thể chung sống dưới một
mái nhà, chung sách, chung đèn, cùng nghiên cứu, khảo luận những lý lẽ nhiệm
mầu, kỳ ảo của các môn lý, số, nho, y.
Nhờ vậy, chẳng
bao lâu, tiên sinh đã nổi tiếng là bậc kỳ tài, không những tướng số như thần mà
chữa bệnh cũng kỳ diệu không kém những tay danh y thuở trước, quyết đoán được
sự sanh tử của các loại chứng bệnh nan trị.
Nhưng đặc biệt
hơn hết, tiên sinh vẫn chỉ sở trường và chăm chú trao đổi, nghiên cứu về riêng
môn phong thủy.
Nhờ những kết
quả hiển nhiên về sự kết phát mấy ngôi mả trong vùng, thiên hạ đồn đải, một đồn
mười, mười đồn trăm, chỉ ít ngày sau, tiên sinh đã được mọi người suy tôn là
Thánh Sư Địa Lý!
Nhưng
"sinh nghề, tử nghiệp", cái công lệ của Hóa Công mà ít ai tránh khỏi
đó, không ngờ lại nhằm ngay đúng vị túc nho, thánh sư địa lý nước Nam mà báo
ứng, không những khiến cho Thanh Lã tiên sinh bị mục tật, tàn phế trọn đời mà
trong hàng ngũ danh nhân nghèo nàn của ta cũng mất đi một ngôi sao sáng chói!
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng - Hoàng hàm thư - 5
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Kiểu đất Lưỡng Long tranh châu
Nguyên tiên sinh là dòng trưởng trong họ, từ khi học được kỳ thuật
về lý số, thường được nghe bà con, anh em trong họ yêu cầu tiên sinh phải cố
gắng tìm cho kỳ được một ngôi đất thật quý, để hoạc chôn cất hài cốt tổ phụ,
hoặc xây dựng nhà thờ họ, tuỳ theo địa điểm và địa thế hầu con cháu trong họ
sau này, có hy vọng mở mày mở mặt được với thiên hạ.
Tiên sinh vốn
dững dưng với bã vinh hoa, coi công danh, phú quý như đám mây trôi nổi giữa nền
trời giông tố, mà luôn cả cuộc đời cũng không hơn gì một giấc chiêm bao, hợp
tan, tan hợp nào có gì là vững bền vĩnh cữu đâu?
Nhưng trước lời
yêu cầu của các bậc phụ chấp trong họ, tiên sinh tự thấy không tiện chối từ.
Vả lại, tiên
sinh cũng không có quyền gì và cũng không thế nào bắt buộc được mọi người phải
chán ghét sự bon chen danh lợi như mình, nên đành phải nhận lời.
Từ đấy, ngoài
việc chửa bệnh cho dân làng và để mả giúp cho những người quen biết trong vùng,
tiên sinh ngày chăm chú vào việc tìm kiếm một kiểu đất thật đặc biệt, để làm mộ
phần tổ phụ, cho trọn lời cam kết, hứa hẹn với họ hàng.
Đất tốt tuy
không hiếm, song nếu được hào này lại hỏng hào khác, chỗ kết ngành nọ, lại hại
ngành kia, suy đi xét lại rất kỷ lưỡng tiên sinh vẫn không được toại nguyện,
chút nào, nên hầu hết những thửa đất lựa chọn, được tiên sinh đều đem tặng cho
những gia đình nghèo khổ nhưng có tiếng là trung hậu trong vùng.
Những gia đình
này đang khốn quẩn đến cực độ, sau khi tổ mộ quán khí, bỗng phấn khởi hẵn lên,
có gia đình con cháu thi đậu làm quan, có nhà thì tự nhiên làm ăn, sinh sôi nẩy
nở, hưng thịnh lạ lùng. Họ mừng rở kéo nhau đem lễ vật đến nhà tạ ơn Thanh Lã
tiên sinh.
Lưỡng
Long tranh châu
Hành vi trung
hâu của những gia đình mới được kết phát không ngờ vô tình, lại làm gây phiền
lụy cho tiên sinh rất nhiều!
Vì các vị phụ
chấp cũng như anh em trong họ, thấy thế đều oán giận, chê trách tiên sinh là ăn
ở vô tình với họ hàng thân thích!
Theo lời họ phê
bình, thì tiên sinh không chịu tận tâm lo việc tìm đất cho cả họ, mà chỉ săn
sóc giúp đở người dưng, nước lã, theo đúng câu cửa miệng: "địa lý không để
được mả nhà".
Cay nghiệt, oan
uổng hơn nữa là người ta còn gáng cho tiên sinh cái tiếng tham tiền, nên mới
chăm chú để mả cho người ngoài, mà lơ là sự ký thác chí tình của cả họ!
Tiên sinh giải
thích thế nào, họ cũng chẳng chịu tin, là tiên sinh không muốn chọn những kiểu
đất tầm thường, dù có kết phát cũng chỉ là sự kết phát nhỏ nhặt mà chỉ muốn cố
tìm cho kỳ được những kiểu đất đặc biệt, khả dĩ tạo được sự kết phát lâu bền,
oanh liệt để làm vẻ vang cho dòng họ.
Với tâm tính hồn
nhiên của một nho gia thuần túy, Thanh Lã tiên sinh vui lòng hứng nhận tất cả
lời dị nghị, chỉ trích của họ hàng, chẳng một chút buồn phiền hay oán giận.
Tiên sinh cứ
tiếp tục âm thầm làm việc theo ý mình, mong một ngày kia, có thể tìm được kiểu
đất đai quý để trả lời sự suy xét thiển cận của mọi người trong họ.
Quả nhiên, chỉ
nửa năm sau, tiên sinh đã khám phá được kiểu đất "Lưỡng Long tranh
châu" ở làng Mía mà người quanh vùng này, thường gọi là "Hạc
Hải" để hiến dâng cho họ, theo đúng lời hứa khi trước của tiên sinh.
Đó là một khu
đất cực kỳ quý báu, đem lại sự kết phát tới đế vương, tồn tại liên tiếp được
ngoài một ngàn năm, nhưng nếu biết "tiếp phước" sẽ lại có thể phục
hồi long mạch để con cháu hưởng phước thêm vô thời hạn!
Tuy nhiên, có
một trở điều ngại rất quan trọng đã làm cho Thanh Lã tiên sinh phải bận tâm suy
nghĩ mất khá nhiều thì giờ: đó là địa thế ngôi đất quý!
Nó nằm ngay
trong vòng lũy tre làng, chứ không phải như mọi kiểu đất khác, tọa lạc ở ngoài
đồng ruộng hay núi, đồi, đều có thể an táng được hài cốt người quá vãng một
cách dễ dàng!
Tục lệ ở thôn
quê, đâu có cho phép ai được xây đắp mộ phần ở trong làng, viện cớ: "người
sống không bao giờ chịu ở lẫn với hồn ma"!
Những hương chức
thôn, thân hào dù cho giàu có như Thạch Sùng, Vương Khải, quyền uy hách dịch
không kém các vị đương quan, cũng không thế nào vượt nổi lệ làng, để công khai
đem hài cốt tổ tiên chôn cất ở trong làng đã được giới hạn từ bao đời trước,
bằng một vòng lũy tre xanh, phân biệt đất ở của dân cư, với đồng ruộng, bao gồm
cả tha ma, mộ địa!
Phép vua thua lệ
làng, là thế đó!
Nhưng tìm được
kiểu đấ "Lưỡng Long tranh châu" không phải là một sự dễ dàng, mà có
thể nói là bỏ qua được một cách dễ dàng như vậy?
Phải tìm đủ mọi
phương pháp sử dụng ngôi đất quý ấy cho kỳ được mới nghe! Thanh Lã tiên sinh,
lúc đầu đã định chôn dấu hài cốt tổ phụ, không cho một ai biết, kể cả bà con
trong họ, nhưng suy đi, tính lại, tiên sinh thấy có nhiều điều bất tiện, lại
thôi.
Cuối cùng, tiên
sinh cương quyết vận động bỏ tiền ra mua thửa đất ấy, rồi đổ nền cao để cất nhà
thờ họ!
Việc làm cùa
tiên sinh kín đáo vô cùng!
Dân làng và luôn
cả mọi người trong họ, không một ai biết dụng ý của tiên sinh.
Nhưng sau ngày
hoàn thành từ đường chừng gần một năm, cả họ, nhất là, chi trưởng của tiên
sinh, làm ăn hưng thịnh, phát đạt lạ lùng, trẻ em học một biết mười, đứa bé sơ
sinh nào trong họ mới ra chào đời, cũng thông minh, đĩnh ngộ, khôi ngô, tuấn tú
khác thường, khiến cho dân làng kinh ngạc, một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng
bao lâu, khắp vùng lân cận đều đồn đải rùm beng là mồ mả của Thanh Lã tiên sinh
được xây cất trên một khu đất quý, kết phát rất to!
Trước những lời thì thầm, bàn tán của dân làng, tiên sinh chỉ mỉm cười, không công nhận mà cũng không cải chánh.
Trước những lời thì thầm, bàn tán của dân làng, tiên sinh chỉ mỉm cười, không công nhận mà cũng không cải chánh.
Sự thực, thì chỉ
có một mình tiên sinh biết rõ.
Nó không phải là
mồ mả kết phát chi hết, mà chính là ngôi nhà thờ họ làm trên kiểu đất
"Lưỡng Long tranh châu", mà chiếc khám thờ, đặt bài vị của tổ tiên
của Thanh Lã tiên sinh, được thiết lập ngay tại đúng quả châu, nên hấp thụ linh
kgí của hai thần long, mới quán khí một cách nhanh chóng, mãnh liệt như thế.
Sỡ dĩ tiên sinh
không muốn nói cho ai biết tính cách quý báu của khu đất Hạc Hải chỉ là vì tiên
sinh hiểu rõ sự ghen ghét của người đời, một khi biết rõ dòng họ của tiên sinh,
sớm muộn gì cũng sẽ được kết phát vẻ vang, nhờ về ngôi từ đường kia xây cất
trên kiểu đất "Lưỡng Long tranh châu" tất sao cũng tỉm cách hãm hại,
hay phá hủy tòa nhà ấy cho kỳ được.
Đó là tâm lý
thường tình của những kẻ không muốn cho ai sang đẹp hơn mình? Không những nạn
"ố mỹ" lan rộng trong dân làng, thôn xóm, mà nó còn ăn sâu cả vào tâm
não, phế phủ những bạn đồng nghiệp với tiên sinh nữa!
Những người cùng
nghề trong thiên hạ, có mấy khi chịu ưa nhau bao giờ đâu?
Dù là những tín
đồ Khỗng Mạnh, luôn luôn tôn trọng đạo đức, cương thường, họ cũng không tránh
khỏi được cái nạn "hàng thịt nguýt hàng cá" chê bai nhau, dèm xiểm
nhau, để duy trì cho kỳ được địa vị độc tôn của họ! Các thầy địa lý cũng vậy!
Tuy khoát ngoài
cái danh nghĩa đồng nghiệp hay đồng môn, họ vẫn chẳng dẹp bỏ được óc vị kỷ,
chèn ép bạn bè trong trí não, nên mỗi khi thấy đồng nghiệp thành công rực rỡ,
họ không ngần ngại gì, tìm cách "phá đám" với mục đích duy nhất triệt
hạ uy thế của người bạn cùng nghề.
Đấy là nói sự
thành công trong việc tìm đất để mả cho thiên hạ!
Còn nếu là
trường hợp thầy địa lý táng đuợc hài cốt thân nhân vào đúng cát huyệt, để có
thể kết phát oanh liệt, hiển vinh thì thôi, trăm ngàn "mũi dùi" khốc
hại của các đồng nghiệp sẽ cùng một lúc, nhắm cả vào khu đất quý báu kia, để
trấn áp, yểm trừ cho mất hẵn sự kết phát đi!
Lòng ghen tài đã
biến họ, từ người học vấn thuần lương, thành một kẽ đố kỵ tầm thường thâm hiểm,
độc ác vô bờ bến!
Phải chăng vì
thế, người ta mới có câu "Địa lý không mấy khi để được mả nhà", để ám
chỉ sự phá hoại kinh khũng giữa anh em đồng nghiệp!
Đây
là chưa kể tới âm công, phúc trạch của tổ tiên từ mấy mươi đời trước!
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng - Hoàng hàm thư - 6
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Chỉ vì một lời khiêu khích
Hơn ai hết, Thanh Lã tiên sinh biết rõ nền âm công phúc trạch của
dòng họ nhà mình, tính cho đến đời tiên sinh, quả thực không lấy gì làm đặc
biệt cho lắm để khả dĩ được xứng đáng thụ hưởng sự giàu sang, phú quý của Tạo
Hóa dành cho, mặc dầu, căn cứ theo lời ghi chép trong gia phả, ông cha tiên
sinh vẫn luôn luôn giữ được nền nếp nho phong, đức hạnh, từng được dân trong
vùng mến yêu, kính nể.
Kiểm điểm lại
công đức của tiền nhân từ hai mươi đời nay, tiên sinh thấy các Cụ tuy cũng sốt
sắng giúp đở người bần hàn, túng thiếu, từng góp công, góp của khá nhiều trong
các việc đúc tượng, xây chùa, dựng cầu, cất quán, song âm công phúc trạch ấy,
vẫn không đủ cho con cháu thụ hưởng sự kết phat vẽ vang đến tột độ, do kiểu đất
"lưỡng long tranh châu" đem lại!
Cứ theo sự hiểu
biết của tiên sinh, thì sau khi xây dựng được hoàn toàn ngôi nhà thờ họ, trên
khu đất Hạc Hải ở làng Mía, chỉ trong vòng bách nhật (100 ngày), tất cả mọi
ngành trong họ nhất là chi trưởng, sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng một cách mau
chóng lạ lùng!
Đồng thời chỉ ba
năm sau, do những sự tình cờ dung rủi, trong họ thế nào cũng có người làm tới
Đế Vương, công hầu, khanh tướng.
Còn quan lại,
văn võ từ nhị, tam phẩm trở xuống thì không biết bao nhiêu mà kể nữa, vì bất cứ
ai trong họ, một khi đã cắp sách đi học theo nghiệp văn, hay cầm thanh kiếm múa
men theo nghề võ, cũng đều hiển đạt, được hưởng lộc nước ơn vua suốt lượt! đó
là sự kết phát về con trai.
Còn về nữ giới,
thì con gái trong họ, nếu không được tuyển vào cung làm hoàng hậu, quí phi, thì
cũng lấy được chồng khoa bảng, đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong triều,
để cuối cùng, cũng nghiểm nhiên được là mệnh phụ phu nhân, ra hài vào bẩm, ngựa
xe rộn rịp, võng lọng nghênh ngang, danh giá không kém gì con trai trong họ.
Có thể nói: đó
là một kiểu đất cực kỳ quý báu, hàng ngàn năm mới kiếm nổi một ngôi, chớ chẳng
dễ dàng gì như những ngôi mả kết phát vinh hoa phú quý trong phạm vi bình
thường chỉ có công dụng tồn tại chừng năm ba chục năm, rồi thế nào cũng lại suy
sụp như trăm ngàn kiểu đất khác ở rải rác khắp nơi trên đất nước này.
Một nhà phong
thủy chính tông Trung Quốc, trên con đường theo dõi long mạch kiểu đất
"Cữu Long triều đế khuyết" phát nguồn từ dãy Thập Vạn Đại Sơn, vượt
biên giới qua Việt Nam, khi đến làng Mía, được nhìn thấy khu vực Hạc Hải, trên
có xây dựng một ngôi từ đường, kiểu cách, phương hướng rất chính xác, đúng theo
lời chỉ dạy chân truyền của những thầy địa lý chính tông, có chân tài, thục
học, thì cả kinh, vò đầu, bứt tai, lầm bầm đầy tiếc hận
- Tiếc thay!
Tiếc thay! Một kiểu đất hiếm có ở trên đời, chẳng cứ khó tìm thấy ở Nam
bang mà ngay đến cả bên Trung Hoa, đất vuông tới ngàn vạn dậm, nhưng đốt đuốc
trọn đời, cũng chẳng mấy khi kiếm được nổi một ngôi đất tương tự?
Cha chả! Tay nào
khám phá nổi kiểu đất kỳ dị này, hẳn cũng là một bậc kỳ tài trong thiên hạ, mới
có mắt xanh nhận định được những nét huyền bí tàng ẩn trong khu đất trủng thấp,
mà nếu chỉ nhìn sơ qua bề ngoài, không một ai lại có thể ngờ rằng: đây là một
kho tàng vô giá, dành riêng cho người hữu phước, được hưởng thụ đủ các thứ:
phú, quý, thọ, khang, ninh ở trên đời!
Càng chăm chú
quan sát khu Hạc Hải, nhà phong thủy Trung Hoa lại càng say sưa, đứng ngây mặt
nhìn sững hàng giờ không biết chán, tự trách mình đã quá chậm chân, nên người
nào đó mới chiếm được ngôi đất quý báu ấy, để làm nhà thờ họ, tạo nên sự kết
phát cho cả một dòng họ to lớn. Chứ nếu ông ta nhanh chân đến được nơi này sớm
hơn chút nữa, thì tìm thấy khu vực này, chắc sao cũng cố vận động, bằng tất cả
mọi phương pháp, không quản ngại gì tốn kém công phu để chiếm đoạt cho kỳ được
môn bảo vật vô giá ấy!
Nhưng rồi lão tự
an ủi: có lẽ đó cũng là số phận an bài của Tạo Hóa, hoặc do tổ tiên nhà lão kém
phúc trạch, âm công: hoặc bởi lão chưa gặp vận hanh thông, hưng thịnh, nên mới
xui khiến cho lão la cà trên đường đi từ Tứ Xuyên qua Bắc Việt, làm cho hành
trình bị chậm trễ mất bảy, tám tháng trời, một thời gian khá dài, đủ cho người
nào đó xây dựng được trọn vẹn tòa từ đường trên khu cát địa!
Cuối cùng, không
sao ngăn chận được tính hiếu kỳ và lòng tiếc hận, nhà phong thủy Trung Hoa liền
hăm hở dò những người quanh đấy để tìm vào hội kiến Thanh Lã tiên sinh.
Đôi bạn đồng
nghiệp tuy không đồng hương, đồng quán, nhưng lại vốn cùng xuất thân nơi cửa
Khổng sân Trình, cùng theo đuổi một mục đích chung: lê gót giang hồ đi khắp mọi
nơi trong thiên hạ, để tìm kiếm những kiểu đất quý báu, kỳ dị rồi xem nhà nào
dày âm công, phước trạch sẽ táng giúp, hầu khuyến khích mọi người tu nhân, tích
đức.
Hơn thế, nhờ
cùng thông hiểu Hán Tự, nên dù ngôn ngữ bất đồng họ cũng có thể dùng lối bút
đàm nói chuyện với nhau một cách dễ dàng.
Duyên kỳ ngộ
giữa đôi bạn cùng nuôi chung một chí hướng, đã làm cho họ vượt qua được mọi trở
ngại, ngỡ ngàng của buổi sơ giao hội kiến, để đi ngay vào truyện tâm tình tri
kỷ.
Theo lời thuật
của nhà phong thủy Trung Hoa, thì ông ta đã đi theo một mạch đất từ bên Tàu,
qua biên giới đến quá Lạng Sơn chừng năm mươi dặm, thì lạc mất dấu vết.
Không ngờ đi tới
đây, ông ta lại thấy kiểu đất lưỡng long tranh châu, so với kiểu đất ông ta
đang tìm kiếm, tuy chẳng bằng một nửa, song cũng thuộc vào loại kỳ tú, hiếm có
ở trên cõi đời này.
Thanh Lã tiên
sinh cũng không dấu diếm nói hết những đặc điểm thiêng liêng quái dị của ngôi
đất cho người bạn mới nghe, và không quên khiêm tốn yêu cầu :
- Duyên hạnh ngộ
xui khiến cho đôi ta gặp nhau, vậy nếu tiên sinh không chê tôi tài sơ, trí
thiển, thì thấy có gì sai lệch, không đúng với lời chỉ dạy của thánh hiền, dám
xin tiên sinh vì cảm tình đặc biệt, dạy bảo cho.
Nhà phong thủy
Trung Hoa quơ tay, phác một cử chỉ chối từ, rồi mới khiêm nhượng trả lời:
- Không, không có gì sai lệch hết!
- Tất cả đều đúng theo phép tắc địa lý chính tông.
- Tất cả đều đúng theo phép tắc địa lý chính tông.
Có điều, gian chánh tẩm, thiết lập bàn
thờ tổ phụ hơi thấp một chút, trong lúc bốn gian ở hai bên lại cao quá.
Như vậy, tôi e rằng sự kết phát sẽ bất lợi một phần nào cho những người thuộc về chi trưởng trong dòng họ.
Như vậy, tôi e rằng sự kết phát sẽ bất lợi một phần nào cho những người thuộc về chi trưởng trong dòng họ.
Thanh Lã tiên
sinh bề ngoài, tuy gật đầu tán thành ý kiến của người bạn mới, song trong thâm
tâm, tiên sinh không cho là phải mà nghĩ thầm rằng:
- Trước khi
quyết định xây dựng ngôi từ đường này, mình đã khổ công nghiên cứu hàng nửa năm
trời, đến nổi quên ăn, bỏ ngũ, nghe đồn ở đâu có sách hay thầy giỏi, cũng cố
lần mà tìm đến để tham khảo ý kiến, hay mượn sách quý về tra cứu, cực kỳ công
phu vất vả.
Nhờ đó mới hoàn
thành được một ngôi từ đường toàn bích, đem lại sự kết chắc chắn, chẳng những
cho riêng mình, mà còn cho tất cả các chi khác trong họ nữa.
Vậy mà giờ đây,
người bạn mới này lại chê bai, chỉ trích gian chánh tẩm và bốn gian kế cận thì
quả thực là chuyện lạ lùng, hầu như vô lý vậy?
Sau cùng, tiên
sinh kết luận: có lẽ thầy địa lý chính tông Trung Hoa này cũng không thoát khỏi
cái bịnh "sú diện ố nga my" vốn là một cố tật bất di ,bất dịch của
những người cùng làm một nghề, nên muốn phá nhau, ông ta mới sui dại tiên sinh
như vậy.
Nhân dịp này,
tiên sinh còn mời thêm một viên đề lại họ Phạm ở trên huyện, để giới thiệu với
người bạn đồng nghiệp Trung Hoa, vì ngày thường, viên đề lại, cũng tỏ ra là
người thức thời, lịch duyệt, văn chương, thi phú, dù không phải là bậc kỳ tài
trong thiên hạ, song, trong mấy làng Mông Phụ, Mông Sàng, viên đề lại vẫn nổi
danh là tay thông kim bác cổ.
Tiên sinh kết
giao với viên đề lại cũng không phải là không có dụng tâm, sâu sắc, nhất là đối
với một người có tâm hồn sảng khoái, khinh thế ngạo vật, coi rẻ lợi danh, phú
quý như tiên sinh thì có bao giờ lại chịu giao du mật thiết với một viên đề
lại, quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng trù mưu tính kế, để thay đen đổi trắng
án từ, soay sở bóc lột dân lành và tìm cách su phụ xiểm nịnh quan trên, mong
các bậc "phụ mẫu dân " ngó lơ, cho y mặc tình làm mưa, làm gió, tác
phúc, tác oai!
Tư cách, cũng
như tâm tính những viên thông lại, đề mục đã được phản ảnh rõ rệt, vô cùng xác
đáng, qua câu phương ngôn "một đời làm lại, bại hoại ba đời"!
Sở dĩ thiên hạ
chỉ biết kết tội bọn thông lại, đề lại, mà không lên án các quan phủ, huyện chỉ
là vì các án văn, tố tụng ở các vùng thôn quê, hết thảy đều do ngòi bút của các
thầy đề, thầy thông cấu tạo nên, chỉ một nét bút của họ, cũng đủ làm tán gia,
bại sản một gia đình hào phú, chỉ một lời thêm bớt của họ, cũng đủ khiến cho
người dân lương thiện bị tù đày, khảo tra khổ cực!
Biết bao mối oan
khiên, khốc liệt đã xảy ra vì ngòi bút của bọn sai nha tham lam, thâm độc!
Biết bao nhiêu
việc bất công vô lý, đã do lũ ruồi nhặng tạo ra, làm người dân thấp cổ, bé
miệng, đành cam chịu đau đớn, không còn biết kêu đâu cho rõ trắng đen, thực
giả?
Thanh Lã tiên
sinh, biết rõ hơn ai hết những tệ đoan ấy của bọn sai nha, nên trước kia, viên
đề lại họ Phạm thường muốn tìm cách kết thân, tiên sinh cũng cố tình lãng
tránh, mặc dầu tiên sinh vẫn khéo léo, mềm mỏng trong ngôn từ, cử chỉ để không
làm thương tổn đến lòng tự ái của viên đề lại họ Phạm.
Tiên sinh vẫn tự
nhủ thầm : sẽ mãi mãi duy trì sự giao du hời hợt này, chứ nhất định không chịu
chơi bời mật thiết với lời tẩu cẩu nguy hiểm ấy, e có khi vì quyền lợi riêng
tư, y cũng có thể bán đứng tiên sinh để mưu cầu chút lợi danh, chung đỉnh!
Nhưng đến khi
tiên sinh tìm được kiểu đất Hạc hải, xây dựng ngôi từ đường trên trái châu giữa
hai con thần long, thì tiên sinh không thế nào giữ được vẻ lạnh lùng, thơ ơ như
trước nữa!
Tiên sinh dư
hiểu sự bới móc, soi mói, ghen ghét, dèm pha của bà con nơi thôn xóm mỗi khi họ
thấy có ai hơn họ về cách này hay cách khác!
Kiểu đất Hạc
Hải, dù đã được tiên sinh giữ gìn rất kín đáo, cũng không che đậy được lâu dài,
trước sự tò mò của mọi người, nên chỉ hai tháng sau, dân làng đều biết hết.
Thế là đứng đâu,
ngồi đâu, họ cũng đem truyện địa lý ra bàn tán sôn sao, với những sự thêu dệt,
vẽ rắn thêm chân, khiến cho chính Thanh Lã tiên sinh, nhiều lúc, cũng phải ngở
ngàng, trước những chi tiết bịa đặt, cực kỳ khéo léo, lớp lang rất chu đáo, tế
nhị!
Hơn nữa, khu Hạc
Hải từ bao nhiêu đời trước, vẫn là vùng cấm địa ở làng Mía, không một ai được
phép sử dụng sở hửu chủ thửa đất ấy.
Các ông già, bà
cả cũng không người nào biết rõ nguyên do nào sui khiến làng xóm phải ra lệnh
cấm xây dựng nhà cửa trên thửa đất này?
Người ta chỉ
biết lơ mơ rằng đó là lệnh cấm đã có từ lâu lắm rồi, hết đời nọ, qua đời kia,
lâu dần biến thành luật lệ bất di, bất dịch, mà tất cả những người sinh sống
trong vòng rào lủy tre xanh làng Mía phải triệt để phục tùng.
Mãnh lực quái dị
sui khiến cho dân làng phải răm rắm tuân theo lệnh cấm ấy, chỉ là vì mỗi khi có
một kẻ ngõ nghịch, ngang bướng nào đó không chịu tin một việc mà hắn cho là dị
đoan mê tín hảo huyền, cứ nhất định kiếm tre lá làm nhà trên thửa đất này, thì
tức khắc làng xóm bị động trệ, tứ tung: người lớn, trẻ con đau ốm suốt lượt,
trâu bò, gà lợn chết toi, đến nôi chôn không kịp !
Rồi bất thình
lình lại phát cháy cùng một lúc ở nhiều nơi khác nhau.
Và kỳ dị, đáng
ghê sợ hơn nữa là cứ mổi đêm từ giờ Tí trở đi, là trên các ngã đường, nhất là ở
sau đình và trước cổng chùa luôn luôn có tiếng gươm giáo va chạm vào nhau loảng
soảng, hoà với tiếng ngựa hý, quân reo, tạo thành một âm thanh rụng rời, ma
quái!
Trong ba ngày
đêm liên tiếp, nếu các kỳ hào, hương chức trong làng không can thiệp, bắt kẻ
ngang bướng phải lập tức triệt hạ căn nhà kia đi, thì đến ngày thứ tư, thế nào
một vị bô lão cao niên nhất ở trong làng, cũng đạp đồng lên, đang tự nhiên, mặt
mũi bỗng đỏ gay như người say rượu, rồi vừa đi ra đình, vừa hò hét om sòm, quở
mắng hương chức, lý dịch, đã không giữ gìn được trọn vẹn trật tự ở trong làng,
để đến nổi có kẻ dám ngang nhiên chiếm đoạt khu đất linh thiêng của thần thánh!
Rồi vị bô lão ấy
ra mở cổng đình, chạy vào chánh điện, nhảy lên bàn thờ Thành Hoàng, ngồi chểm
chệ, hoa tay lên không khí như múa may, phù phép chi vậy!
Thế là kẻ ngang
bướng, làm nhà trên khu cấm địa, bị hộc máu tươi, chết ngay không kịp trăn trối
nữa lời.
Theo lời các ông
già, bà cả thuật lại, thì từ trước tới nay, đã có tới năm người bị chết bất đắt
kỳ tử như thế rồi!
Từ ngót một trăm
năm nay, tuyệt nhiên không còn một ai dám "chơi dại" trêu vào uy lực
của Thánh Thần, nên cả thửa đất cấm ở làng Mía bỏ mặc cho cỏ lau mọc cao lút
tới đầu người, làm sào huyệt vững chắc cho các loài chuột, rắn! Nay đột nhiên,
Thanh Lã tiên sinh lại bí mật điều đình với chủ đất, chịu bỏ ra một món tiền
khá quan trong để mua lại thửa đất, cỏ mọc um tùm, bao trùm, không biết bao
nhiêu chuyện quái đản, dị kỳ!
Ngay hai bên mua
bán chính thức làm văn tự, một số người hiếu kỳ đó không ngớt lời chê bai Thanh
Lã tiên sinh là ỷ tài, cậy của, nên mới điên rồ, bỏ ra một số tiền lớn, để tự
rước lấy "cái nợ mươi đời", vì mặc dầu biết tiên sinh thông thạo cả
nho, y, lý, số, người ta cũng vẫn không tin rằng, tiên sinh lại có đủ tài năng,
chế ngự được uy quyền tối linh của thần thánh, mặc nhiên coi khu đất linh
thiêng ấy như một nơi bất khả xâm phạm ở trong vùng?
Thanh Lã tiên
sinh chỉ mỉm cười, trước những lời phê bình cay nghiệt, của dân làng và lẳng
lặng bắt tay vào việc.
Với tất cả tài
học sở trường về môn phong thủy, thâu lượm được trên bước đường giang hồ phiêu
lãng, tiên sinh cố sức trấn yểm khu đất thiêng liêng quý giá để mong xây dựng
ngôi nhà thờ theo lời yêu cầu của bà con trong họ.
Trong thời gian
ấy, tiên sinh đã phải đối phó rất cam go, nguy hiểm với một bọn người, cố ý
kiếm chuyện để định phá rối tiên sinh, vì họ biết chắc rằng nếu tiên sinh dựng
được chu đáo ngôi từ đường, thì nhất định dòng họ nhà tiên sinh, sẽ được hưởng
thụ sự kết phát vô cùng hiển hách!
Một mặt phải đối
phó với sức phá rối của một số dân làng ngang bướng, một mặt tiên sinh phải sử
dụng khả năng chuyên môn, để công cuộc trấn yểm đem lại kết quả mỹ mản, thì mới
có thể tiến hành việc xây dựng được ngôi từ đường.
Đó thật là một
công trình gian nan khó khăn đến cực độ, vì thầy địa lý trong trường hợp này,
nếu chỉ non tay ấn một chút có thể bị thần thổ địa quật chết ngay trong nháy
mắt!
Muốn rảnh tay,
để tập trung tất cả khả năng vào công việc trấn yểm, tiên sinh buộc lòng phải
giao dịch với viên đề lại họ Phạm, mong nhờ uy thế viên lại mục khét tiếng là
cơ mưu sâu sắc nhất ở trong huyện, để bịt miệng dân làng, không cho một ai được
phép khiếu nại, hay chỉ trích về sự xây dựng ngôi nhà thờ trái phép của tiên
sinh.
Trong thời phong
kiến xa xưa, khi chế độ quan liêu còn cực thịnh ở trên đất nước này, thì uy
quyền của một viên thông lại, đề mục, luôn luôn được đồng bào thôn quê coi như
thần minh, thánh sống, có khi còn được mọi người kính nể, quý trọng hơn cả
những vị phụ mẩu chi dân chánh cống!
Biết rõ được tâm
trạng ấy của bà con thôn xóm, Thanh Lã tiên sinh đành ép mình giao du mật thiết
với viên đề mục họ Phạm, để mỗi khi có cơ hội chè chén, tiệc tùng với nhau,
tiên sinh lại không quên nhắc đến dụng tâm phá rối của một số dân làng, trước
công cuộc xây dựng từ đường của tiên sinh, và khôn khéo yêu cầu viên đề mục,
nếu có nhận được đơn từ khiếu nại về việc đó, thì xin vì tình tri kỷ bác bỏ hay
quở trách nguyên đơn, để họ không dám theo đuổi sự quấy rối tiên sinh nữa.
Một lời nói của
đám sai nha, thân tín của các quan phủ huyện ngày xưa, đã có một giá trị cực kỳ
quan trọng.
Nó như quyết
định được cả tính mạng của người dân thấp cổ bé miệng, vì chỉ cần một lời thêm
bớt ra của bọn sai nha viết trong biên bản đệ trình lên quan trên, là đủ làm
cho một người vô tội bị tù đày, một phú nông phải táng gia bại sản hay trái lại
một tên sát nhân được ung dung, sống tự do giữa rừng người lương thiện hoặc
dung túng một kẻ ác bá cường hào tha hồ lấn bờ, cướp ruộng của bà con nghèo
khó, làm mưa, làm gió như một "thảo khấu đại vương" ở nơi thôn xóm!
Dòng họ Thanh Lã
tiên sinh, cũng không phải là cùng đinh, lép vế gì mà thực ra, thì từ mấy đời
gần đây, vẫn kế tiếp có người đảm nhiệm những chức vụ quan trọng ở trong làng,
nhất là từ khoảng hơn hai mươi năm nay, hầu hết những vai trò then chốt trong
đám kỳ hào, hương lý, đều do người trong họ tiên sinh nắm giữ cả!
Nhưng không phải
vì thế, mà tiên sinh có thể tự do, muốn xây cất nhà thờ trên khu cấm địa lúc
nào cũng được đâu?
Vì ngoài phe
nhóm kỳ hào trong dòng họ của tiên sinh, trong làng xóm có dòng họ Trần cũng
giàu sang không kém!
Hai họ chia nhau
đặc quyền theo từng guồng máy hành chánh trong lũy tre xanh, và luôn luông giữ
miếng đề phòng nhau, cũng như chờ đợi cơ hội thuận tiện để triệt hạ nhau, mong
đọc chiếm quyền "ăn trên ngồi trước" ở chốn đình trung cho riêng
những người trong họ mình.
Cứ nhìn qua danh
sách hương chức trong làng, người ta cũng có thể đoán biết được sự tranh chấp
gay go của hai dòng họ: chức tiên chỉ nếu về tay một vị bô lão, thuộc vào hàng
phụ chấp của Thanh Lã tiên sinh thì theo chức thứ chỉ, nghĩa là chức vị cao qúy
thứ hai ở trong làng, thế nào cũng phải thuộc về phe nhóm họ Trần.
Đồng thời, nếu
cái triện lý trưởng do người họ Trần đảm nhiệm, thì cái chức phó lý nhất định
phải về tay một người chú, bác hay anh em chi đó của Thanh Lã tiên sinh.
Hai họ ráo riết
kiềm chế nhau, công kích nhau khá kịch liệt, bằng tất cả mọi mưu mô, phương
pháp, kể cả những mưu mô xảo trá và phương pháp gian manh, mặc dầu bề ngoài họ
vẫn cố giữ thuận hòa, lịch sự vồn vả chào hỏi nhau những lúc hội hợp ở đình
trung hay gặp mặt nhau trong các đám khao, cưới, ma chay, hội hè, tế lễ.
Do thành kiến cố
hữu, không biết phát sanh tự bao giờ, hai họ lớn nhất ở trong làng, luôn luôn
coi nhau như thù địch, và không một bên nào chịu bỏ lở cơ hội triệt hạ nhau.
Vì vậy, khi mới
nghe tin Thanh Lã tiên sinh mua khu đất cấm làm nhà thờ, họ Trần đã lập tức mở
cuộc hôi hợp khẩn cấp, để hoạch định mưu kế phá tan dự định ấy của nhà phong
thủy lừng danh đất Bắc.
Nhưng nhờ tài
quyền biến khôn khéo, nhờ sự giao dịch mềm mỏng, nhờ biết dùng đồng tiền một
cách rộng rải, Thanh Lã tiên sinh đã vượt được hết mọi trở ngại do phe nhóm đối
phưong ngấm ngầm liên tiếp tung ra để hoàn thành mỹ mản công cuộc mua bán khu
cấm địa.
Bước đầu tiên,
mà cũng là bước gian nan, khó khăn nhất vừa vượt qua được, đã như một phần
thưởng tinh thần qúy giá, khuyến khích người trong cuộc, vững tâm tiến mạnh,
tiến nhanh, hơn nữa trên con đường tuy đầy dẫy chông gai, chướng ngại, nhưng
lại có một cái vườn thượng uyển, ngào ngạt quả ngọt, hoa thơm, líu lo oanh ca,
vượn hót chờ đợi ở đầu đường đằng kia, sẳn sàng tiếp đón người tài trí, biết
dùng nhiệt tâm cương quyết đạp bằng mọi trở lực để đến bến thành công.
Thanh Lã tiên
sinh, sau khi được chính thức làm sở hửu chủ khu đất Hạc hải, liền xúc tiến
việc trấn yểm, ròng rã ba tháng trời, không phân biệt ngày đêm, sớm tối, chẳng
nề hà khổ trí, lao tâm, mới thâu hoạch được một phần nào kết quả.
Sở dĩ tiên sinh
không thành công hoàn toàn trong công cuộc trấn yểm trước khi khởi công xây
cất, chỉ là vì các bậc tiền bối của tiên sinh, không tạo được một nền âm công,
phước trạch đầy đủ khả dĩ cho con cháu được xứng đáng hưởng thụ ơn huệ của trời
Phật.
Vẫn hay rằng, tổ
phụ tiên sinh, căn cứ theo lời ghi chú trong gia phả, từ hai mươi đời nối tiếp
nhau, tính cho đến lúc tiên sinh ra đời chẳng những không có một ai làm điều
bạo thiên, nghịch địa, tàn ác, gian tham, dâm ô, cường ngạnh, mà thói thường
lại còn giúp đở dân làng, góp công xây chùa, tạc tượng, bố thí cho người nghèo
khổ trong những năm hạn hán, thủy tai.
Nhưng tất cả
những hành động từ thiện ấy, chỉ vừa đủ giúp cho các vị tổ phụ của tiên sinh
tránh khỏi kiếp trầm luân, đọa lạc sau khi thác xuống suối vàng, chứ không đủ
gầy nên âm công, phước trạch, tạo thành duyên nghiệp đặc biệt để cho con cháu
hưởng phúc, lâu dài, hiển hách!
Tiên sinh biết
rõ điều đó hơn ai hết!
Nhưng bản tính
háo thắng, tinh thần tự ái và sĩ khí bất khuất của một danh nho, đã thúc đẩy
tiên sinh gắn bó vấn đề vận mạng để qua một bên, để cương quyết dùng tài năng
vượt khỏi số Trời.
Luôn bảy ngày,
bảy đêm liên tiếp, cứ vào khoảng giữa giờ Tí, khi thấy bốn bề yên lặng như tờ,
thôn xóm vắng bặt tiếng gà gáy, chó sủa, tiên sinh mang tróc long ra khu cấm
địa, hô thần, bắt ấn định làm phép trấn yểm, thì cả bảy lần, đều bị thổ thần
hất tung tróc long, và quật tiên sinh ngã quay xuống đất.
Thanh Lã tiên
sinh không thế nào làm phép trấn yểm khu đất Hạc hải như ý muốn, đành lửng
thửng trở về nhà để tìm phương thế khác, vừa đi vừa suy nghĩ mãi mà lạc bước
tới gần sáng qua khỏi làng Mía, tiên sinh chợt gặp được người bạn cố tri : Ông
Tú Lê, là người tinh thông bùa chú, trấn yểm long mạch nổi danh ở làng bên.
Mặc dù không làm
thầy địa lý chuyên môn, để mả cho thiên hạ để lấy tiền, ông Tú Lê cũng nổi danh
là nhà phong thủy chính tông, mỗi khi nhận lời tìm đất cho gia đình nào là
người ấy, chắc chắn sẽ có ngày mát mặt hơn tình trạng hiện tại.
Biết rõ khả năng
của ông Tú Lê, nên tiên sinh luôn luôn nhắc nhở đến danh tánh bạn, những lúc có
dịp hội họp bạn đồng môn thuở ấu thơ, hay gặp những kiểu đất kỳ hình, quái dị.
Giữa giờ phút tuyệt vọng, ưu phiền, được gặp mặt cố nhân, Thanh Lã tiên sinh
mừng rỡ như người cùng khốn nhất đời, mới bất ngờ bắt được một hủ vàng ròng quý
giá, hoặc hơn thế, như một thầy khóa nghèo, được liên trúng tam nguyên, nhẹ
bước thanh vân làm nở nang mày mặt, rở ràng mẹ cha.
Quả nhiên, tiên
sinh đã không uổng công kỳ vọng vào người bạn tâm giao thuở trước, vì vừa được
tiên sinh thuật lại những sự khó khăn mới gặp ở khu đất Hạc Hải, ông Tú Lê liền
sốt sắng nhận lời. Ngay chiều hôm ấy: ông bảo bạn đưa đi coi địa hình địa thế
vùng cấm địa, rồi chờ đến khuya, một mình lẳng lặng ra tận nơi, làm phép nhường
tinh, hô thần, trấn yểm.
Sau ba đêm liên
tiếp, việc trấn áp mới hoàn thành, Thanh Lã tiên sinh liền đích thân đào viên
đá đầu tiên, chôn một đạo bùa trấn trạch, mà không xảy ra một sự trở ngại gì
như mấy buổi trước, mỗi khi phải dùng thuổng, cuốc đào xới khu cấm địa, thế nào
cũng phải bị thổ thần trách phạt, hoặc quất ngã người đứng trông nom, hoặc sui
khiến cho người gảy mai, mẻ cuốc, làm đình trệ công việc đến phải bãi bỏ, không
dám động gì tới khu đất nữa!
Nhưng sau khi
bắt đầu xây cất từ đường, Thanh Lã tiên sinh lại phải đương đầu ráo riết với sự
phá rối của phe nhóm họ Trần.
Những người thù
nghịch với tiên sinh đã thay đổi nhau làm đơn khiếu nại, yêu cầu quan Huyện hạ
lệnh đình chỉ việc xây dựng phi pháp của tiên sinh, viện cớ khu cấm địa Hạc
Hải, từ bao đời nay, vẫn được coi là địa điểm tối linh thiêng, bất khả xâm
phạm, không cho một ai được quyền sử dụng để làm nhà hay trồng trọt, kể cả chủ
nhân được chánh thức thừa kế thửa đất ấy!
Nếu cứ miễn
cưỡng xây dựng, đào xới vùng cấm địa, là thế nào dân làng cũng bị khốn khổ về
sự động trệ tai hại!
Tự biết mình làm
điều ngang bướng vì quyền lợi riêng, không chịu tôn trọng tục lệ trong làng nên
Thanh Lã tiên sinh bắt buộc phải xử sự nhún nhường, thân hành đến tận nhà các
bô lão, hương chức trong dòng họ Trần, để yêu cầu họ vị tình bà con trong xóm
ngoài làng khi tắt lửa, lúc tối đèn có nhau mà sẳn lòng làm ngơ cho tiên sinh
được phép xây dựng ngôi nhà thờ chung cho cả họ.
Bề ngoài, họ
Trần tuy nói cười vui vẻ, không tỏ ý bất bình, phản đối ra mặt, song họ vẫn ngấm
ngầm vận động để ngăn cản công cuộc xây dựng từ đường.
Biết rõ thế lực
của viên đề mục họ Phạm, họ đã dùng tiền bạc để hối lộ tên này, để nhờ y tìm cơ
hội triệt hạ phe nhóm đối phương.
Thanh Lã tiên
sinh nghe được tin ấy, sợ viên đề mục, tay sai thân tín của quan Huyện ám hại
mình, cũng vội thu xếp lể vật tìm cách kết giao với họ Phạm.
Con cáo già họ
Phạm được cơ hội bóc lột cả hai phe, không ngần ngại gì, tỏ ý thân thiện với cả
đôi bên.
Vời ai, y cũng
khôn ngoan hứa hẹn, hết lòng săn sóc, bênh vực, để nuốt trôi những nén bạc bạc
trắng hay những bu gà vịt, những thùng gạo rượu của hai họ đem đến "vi
thiềng"!
Nhân dịp thầy
địa lý Tàu ghé vào xem kiểu đất "lưỡng long tranh châu", tiên sinh
liền cho mời luôn cả họ Phạm đến uống rượu.
Bên mâm cơm thịnh
soạn, ba người vui vẻ chuyện trò về đạo lý thánh hiền, và không ngớt lời ca
tụng những nét tinh hoa, sâu sắc của nền văn hoa cổ kính Đông Phương để cuối
cùng, cực lực suy tôn sự huyền bí cao siêu, uyên thâm, uẩn súc của các môn lý,
số, phong thủy!
Nhân dịp này,
thầy địa lý Tàu, khi đề cập đến các kiểu đất đế vương, có hỏi Thanh Lã tiên
sinh:
- Tiên sinh
thường lưu ý các ngôi đất quý, vậy kiểu đất ở Lam Sơn, nơi phát tích của lê
triều, hiện thời ra sao? Theo ý tiên sinh, thì nơi ấy có những nét gì đặc sắc?
Hơi men bốc cháy
bừng bừng trong phế phủ, Thanh lã tiên sinh vừa nâng chén lên môi, vừa cao hứng
gật gù một cách vô cùng đắc ý:
- Kể ra cũng
không có gì quý lắm, Cả khu Lam Sơn, chưa chắc đã ăn đứt được cái cổng nhà từ
đường này đâu, nhị vị tiên sinh ạ!
Viên đề lại họ
Phạm, tró mắt kinh ngạc nhìn sững Thanh lã tiên sinh, trong lúc tiên sinh vô
tình, cứ cao hứng nói cười như thường !
Và cũng từ đấy,
y không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, mà chỉ chăm chú theo dõi từng lời nói,
cử động của chủ nhân.
Sau tiệc rượu
này, viên đề mục đi tìm mấy viên hương chức thù nghịch với Thanh lã tiên sinh,
thuật lại cho họ nghe, những lời tiên sinh vừa thốt ra trong hơi men chuếnh
choáng và hứa sẽ đem tố cáo hành vi phạm thượng đó với triều đình để lamtội
Thanh Lã tiên sinh, nếu phe họ Trần chịu vui lòng bỏ ra ba trăm nén bạc.
Muốn cho những
người trong họ Trần tin lời mình, họ Phạm đã thao thao bất tuyệt khoe khoang
thế lực của ngòi bút một tay đề lại lão luyện, muốn thay đen, đổi trắng, khuấy
nước nên hồ thế nào cũng được, miễn là án văn cấu phải tạo sao cho thiệt hơp
tình hơp lý.
Hơn thê nữa, lại
còn cần được lòng tin của quan trên.
Mà về điểm này,
thì viên đề lại họ Phạm có thừa điều kiện, vì từ khi được bổ nhiệm về huyện
này, quan Huyện đối với hắn, luôn tỏ lòng tín nhiệm, ủy thác cho hắn nhiều án
từ, công việc quan trọng.
Muốn mua chuộc
lòng yêu mến, thương tưởng của quan Huyện, họ Phạm đã khôn khéo, bày mưu tính
kế cho quan Huyện đục khoét lương dân, khiến cho mới có mấy năm trời mà quan
Huyện đã tậu được trên một trăm mẫu ruộng ở quê nhà.
Nghe họ Phạm nói
rõ âm mưu ám hại Thanh Lã tiên sinh, họ Trần hân hoan tiếp nhận tin đó, và
không ngần ngại gì, chấp thuện toàn vẹn đề nghị của viên đề lại.
Họ về hội họp
ngay các bô lão, chức sắc trong họ rồi trịnh trọng thuật lại rõ ràng lời nói,
bao hàm ý nghĩa phản nghịch của Thanh Lã tiên sinh do viên đề lại họ Phạm nghe
được và sẳn lòng tố cáo nội vụ với quan trên, nếu được họ Trần đền ơn xứng
đáng. Kết luận, người trưởng tộc yêu cầu tất cả mọi người trong họ, không phân
biệt già trẻ, gái trai tính theo đầu người, cứ mỗi xuất phải nộp một lượng bạc,
mới có thể chu tất được món tiền mà viên đề lại đã yêu sách.
Theo lời trình
bày của người trưởng tộc, thì đó là một cơ hội may mắn phi thường, để họ Trần
triệt hạ hạ đối phương bằng một miếng đòn quyết liệt, không còn hy vọng gì để
ngốc đầu lên được, vì trong thời đại phong kiến cục thịnh, kẻ khinh mạn triều
đình, xúc phạm đến uy thế hoàng gia, sẽ bị trảm quyết, bêu thủ cấp làm gương
cho thiên hạ!
Đấy là trường
hợp khoang hồng đối với những tôi nhân không có đầy đủ bằng chứng, tang vật
phản nghịch.
Còn có những vụ án tương tự, mà nạn nhân lại có thể bị xử tới tru di tam tộc, hay hành hình một số chính phạm, và lưu đày những thân nhân, họ hàng giây mơ, rễ má!
Trong dòng họ Thanh lã, vẫn hay rằng có nhiều hương lý, chức sắc, lắm kỳ mưu, diệu kế, có uy danh, tín nhiệm với dân làng, nhưng tựu trung vẫn không được ai tài giỏi như Thanh Lã tiên sinh, nên họ chỉ nhắm riêng mục đích: triệt hạ một mình tiên sinh, cũng đủ khiến cho cả dòng họ tiên sinh phải suy sụp.
Còn có những vụ án tương tự, mà nạn nhân lại có thể bị xử tới tru di tam tộc, hay hành hình một số chính phạm, và lưu đày những thân nhân, họ hàng giây mơ, rễ má!
Trong dòng họ Thanh lã, vẫn hay rằng có nhiều hương lý, chức sắc, lắm kỳ mưu, diệu kế, có uy danh, tín nhiệm với dân làng, nhưng tựu trung vẫn không được ai tài giỏi như Thanh Lã tiên sinh, nên họ chỉ nhắm riêng mục đích: triệt hạ một mình tiên sinh, cũng đủ khiến cho cả dòng họ tiên sinh phải suy sụp.
Viện trưởng tộc
còn nhấn mạnh: nếu bây giờ không triệt hạ được tiên sinh, tức là ngôi từ đường
ở khu Hạc Hải vẫn còn, thì chỉ trong vài ba năm nữa, long mạch nổi dậy, cả dòng
họ ấy sẽ được hưởng thụ sự kết phát vẻ vang, quan văn, quan võ khắp triều đình,
hỏi lúc đó, họ Trần chỉ cầu được sống yên ổn trong xóm làng cũng còn khó, chứ
hy vọng gì cạnh tranh với họ và được dân làng kính nễ nữa!
Mình có cơ hội
diệt trừ họ mà không biết lợi dụng tức khắc, thì sau này, khi họ có nhiều người
làm quan, họ Trần đành chỉ còn có nước làm đầy tớ họ, để đổi lấy sự an cư lạc
nghiệp mà thôi. Viên trưởng tộc đã khéo dùng chính sách "thỉnh tướng không
bằng khích tướng" để gợi lòng tự ái của mọi người trong họ, khiến cho tất
cả nam phụ lão ấu đều nhiệt liệt tán thành âm mưu tố cáo ông Thanh Lã, và sốt
sắng đóng góp ngay số tiền viên trưởng tộc vừa đề nghị.
Chỉ một ngày
sau, họ Trần đã thâu được đủ ba trăm lượng bạc của bà con trong họ, để ngay
chiều hôm ấy, bí mật đem đến nộp cho viên đề lại và không quên nhắc đi nhắc lại
điều kiện thiết yếu : nếu không diệt trừ được ông Thanh Lã, nếu không phá hủy
được ngôi từ đường, thì viên đề lại phải trả lại họ Trần đủ số tiền đã lấy!...
Giấy tờ cam kết
xong xuôi, mấy ông hương lý, thân hào trong họ Trần hý hửng ra về, ngày nào
cũng tụ họp chè chén với nhau, để chờ nghe tin tức.
Giai thoại phong thủy: Kiểu đất Phụng - Hoàng hàm thư - 7
Anne Nguyen
Giai thoại phong thủy
Giai thoại phong thủy
Những hiện tượng quái dị trong hoàng cung
Đúng vào thời kỳ ấy, tại hoàng cung liên tiếp xãy ra mấy hiện tượng
quái dị: luôn 3 đêm ngày liên tiếp, thanh thượng phương bảo kiếm của nhà Vua,
treo gần long sàng, bỗng phát ra những tiếng vo vo đều đều như tiếng gió xào
xạc trong một cơn mưa rả rích.
Đồng thời, chiếc
đỉnh cao bằng đầu người nặng tới mấy ngàn cân, đặt trước điện Thái Hoà, cũng
đột nhiên bị đổ nghiêng hẳn về phía trước, mặc dầu nơi ấy, suốt ngày đêm không
có ai tới, và luôn luôn có võ lâm quân canh gác cực kỳ nghiêm mật. Mà lúc chiếc
đỉnh đổ nghiêng, cũng không gây ra một tiếng động nhỏ nào.
Vị lão quan thẩn
thở, bước xuống lầu, vào thư phòng ngồi thẩn thờ suy nghĩ trước án thư, đoạn dơ
đốt ngón tay tính toán một lúc lâu, bất giác giật mình kinh hãi lẩm bẩm:
- Vận mạng hoàng
triều có cơ suy giảm đến nơi mất rồi, nếu linh khí đất kinh kỳ không sớm phục
hồi, cho hùng hậu như khí phát tích, thì khí thiêng ở phương Bắc sẽ có ngày
quật khởi, lấn át được cả long mạch hoàng thành... Ngai vàng nhà Lê chắc khó
lòng giữ vững.
Ngày hôm sau,
quan Khâm Thiên Giám dâng sớ tâu rõ những hiện tượng quái dị đêm trước và kết
luận:
Ở phương Bắc
chắc có huyệt đế vương, khí thiêng đang thời kết phát, nên bắt đầu làm thương
tổn tới nền tảng vững chắc của Hoàng cung. Nếu không sớm tìm cách diệt trừ, sớm
muộn gì, cũng sẽ gây ảnh hưỡng không tốt cho vận mạng hoàng triều và non sông,
xã tắc.
Nhà vua xem sớ
tấu, bàng hoàng lo sợ, vội giáng mật chiếu cho các quan Tổng Trấn đại thần các
nơi, phải lưu tâm dò xét xem chổ nào có long mạch đế vương thì một mặt phải tâu
ngay cho nhà vua biết, một mặt phải tìm thầy địa lý cao tay trấn yểm cho kỳ
được. Hạn trong ba tháng phải báo cáo tình hình cho triều đình biết.
Mật chiếu được
sứ giả dùng hỏa bài đem ngay đến các biên trấn xa xôi, khi tới tỉnh Bắc Giang
thì vừa đúng lúc viên đề lại họ Phạm đang bày mưu tính kế ám hại Thanh Lã tiên
sinh, sau khi tiên sinh chót thốt mấy lời kém suy nghĩ giữa lúc bị ma men ám
ảnh.
Được quan Huyện
cho gọi vào, nói rõ lời nhà Vua truyền dạy trong mật chỉ, viên đề lại cả mừng,
vội về làm báo cáo tố giác khu cấm địa Hạc Hải, và ý nghĩa biểu lộ sự phản
nghịch trong những lời thốt ra trong lúc vô tình của Thanh Lã tiên sinh, tại
bửa rượu có cả thầy địa lý Trung Hoa cùng dự.
Trong bản báo
cáo này, họ Phạm đã tỷ mỷ tường thuật rõ ràng vị trí của khu đất cấm Hạc Hải.
Đồng thời, còn
trình bày luôn cả tục lệ từ ngàn xưa, với những sự linh ứng dị kỳ ấy, mỗi khi
có người nào ở trong làng, không chịu tuân theo lệnh cấm của hương chức, cứ làm
nhà hay trồng trọt, canh tác trên thửa đất Hạc Hải.
Để có đủ yếu tố
buộc tội Thanh Lã tiên sinh, viên đề lại gian ác này, còn nhấn mạnh đến mưu
tính của tiên sinh lúc mua khu cấm địa mà muốn đạt thành ý nguyện, tiên sinh đã
lợi dụng uy quyền, thế lực của một dòng họ có nhiều người vào bậc đàn anh, chức
sắc, ăn trên, ngồi trước, để bắt buộc dân làng phải im hơi, lặng tiếng, không
cho một ai phản đối chi hết, mặc dầu họ biết dân làng sẽ bị động trệ?
Họ Phạm lại gian
xảo, đính kèm theo bản văn tố giác của y, những bản sao các đơn từ của bọn chức
sắc, hương lý trong phe nhóm họ Trần, trước đây đã đệ trình quan sở tại để phản
đối sự xây dựng từ đường của Thanh Lã tiên sinh.
Bằng một giọng
văn kết tội rất chặt chẻ của một viên lại mục chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm
quý báu trong nghề điên đảo án từ, dệt thêu bịa đặt một cách rất khéo léo, có
mạch lạc, tạo được một niềm tin tưởng vững chắc cho các quan tỉnh khi thẩm xét
nội vụ, viên đề lại họ Phạm còn thâm độc, tường thuật luôn cả trong bản báo
cáo, sự vận động và lợi dụng quyền lực uy thế của một dòng họ, vốn từ mấy đời
nay, vẫn được liệt vào hàng cường hào, ăn trên ngồi chốc ở trong làng để buộc
tội thêm cho ông Thanh Lã là cố tình chiếm đoạt cho kỳ được khu cấm địa với tất
cả mọi giá, chỉ cốt sao xây dựng được ngôi từ đường, mưu cầu sự kết phát hiển
vinh cho cả họ. Để kết luận, viên đề lại còn cam đoan, lấy tính mạng ra bảo đảm
cho sự tố cáo của mình, để nếu có điều gì không đúng, y xin sẳn lòng chịu tội
với triều đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét