越南大罛越
李族
上念高高遠祖望念歷代宗親
追尊李慶雲明德泰后
弟壹代之父母
武道王弟壹代之叔考
VIỆT NAM
ĐẠI CỒ VIỆT
|
THƯỢNG NIỆM CAO CAO VIỄN
TỔ
VỌNG NIỆM LỊCH ĐẠI
TÔNG THÂN
TRUY TÔN
LÝ KHÁNH VÂN
MINH ĐỨC THÁI HẬU
(PHỤ MẪU ĐỜI THỨ NHẤT)
VŨ ĐẠO VƯƠNG
(THÚC KHẢO ĐỜI THỨ NHẤT)
大罛越李朝
弟壹世代
皇帝李太祖
神武
LÝ CÔNG UẨN
974
- 1028
HOÀNG ĐẾ
LÝ THÁI TỔ
TRỊ
VÌ
1009 - 1028
QUỐC
HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT
NIÊN
HIỆU
THUẬN THIÊN
THỤY
HIỆU THẦN VŨ HOÀNG ĐẾ
MIẾU
HIỆU THÁI TỔ
PHỤ
HOÀNG: HIỂN KHÁNH VƯƠNG
MẪU HẬU: MINH ĐỨC THÁI HẬU
HOÀNG HẬU: 1. TRINH MINH HOÀNG HẬU
LÊ
THỊ PHẤT NGÂN
2. TÁ QUỐC HOÀNG HẬU
3. LẬP NGUYÊN HOÀNG HẬU
6. ...
HOÀNG THÚC VŨ ĐẠO VƯƠNG
THÁI
TỬ: 1. LÝ
PHẬT MÃ
KHAI
THIÊN VƯƠNG
HOÀNG
TỬ: 2. LÝ
LONG BỒ
KHAI
QUỐC VƯƠNG
3. LÝ LỰC
ĐÔNG
CHINH VƯƠNG
4. LÝ HOÀNG
VŨ ĐỨC VƯƠNG
5. LÝ NHẬT QUANG (LÝ HOẢNG)
UY
MINH VƯƠNG
CÔNG CHÚA: 1. AN
QUỐC CÔNG CHÚA
LÝ
THIỀM HOA
2. LĨNH NAM CÔNG CHÚA
LÝ
BẢO HÒA
13. ...
Sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều chép ngài Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, Bắc Giang, nay
thuộc phường Đình Bảng, Thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Tuy nhiên
theo nghiên cứu mới đây của các nhà sử học kết luận thì Đình Bảng không phải là
quê hương nội của ông viện lẽ, nhà Lý trước đó tại đây không có dấu tích và
sách phong Thành Hoàng làng gồm ba vị: Cao Sơn, Bạch Lễ và Thủy Bá. Hội làng
Đình Bảng xưa nay từ ngày 12 đến 16 tháng 3 hằng năm cũng chỉ kỷ niệm ba vị này
và 6 vị tổ tái lập làng.
Ông sanh ngày 12 tháng 2 năm
Giáp Tuất tức ngày mùng 8 tháng 3 năm 974.
Cha ông sử sách không
ghi, khi lên ngôi ông truy tôn là Hiển
Khánh Vương.
Mẹ người họ Phạm, truy tôn mẹ là Minh Đức Thái Hậu .
Ông có một người anh
trai tên là Lý Mỗ, được phong là Vũ Uy vương và một người em không rỏ
tên, phong là Thánh Dực Vương. Ngoài
ra ông còn có một người chú được phong là Vũ
Đạo Vương.
Lý Khánh Văn nhận ông
làm con nuôi lúc mới 3 tuổi và thọ giáo sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ.
Ông là người khôi
ngô, thông minh khác thường và rất khí khái.
Ông làm quan võ cuối
đời Tiền Lê, giữ đến
chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư. Ông là người có học, có đức và có
uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng (theo sử thần Lê Văn Hưu).
Năm 1009 nhân vua Lê Long Đĩnh băng hà, ngày
Quý Sửu tháng 11 năm Kỷ Dậu tức 21 tháng
11, nhà sư Vạn Hạnh và quan Chi nội Đào Cam Mộc tôn ông làm Hoàng Đế. Ông lấy
đế hiệu là Lý Thái Tổ, quốc hiệu là Đại Cồ Việt, kinh đô là Hoa Lư đến tháng 7 năm 1010 dời về
thành Đại La và sau đổi thành Thăng Long, ông là người mở đầu cho
triều đại nhà Lý trị vì 216 năm.
Khi lên ngôi ông lập
sáu Vương Hậu, con trưởng Lý Phật Mã được phong
là Khai Thiên Vương, lập Thái Tử. Các con trai khác phong vương, đồng
thời con gái lớn Lý Thiềm Hoa phong là An Quốc Công Chúa, con gái khác Lý Bảo
Hòa phong là Lĩnh Nam Công Chúa.
Đào Cam Mộc được vua Lý Thái Tổ gã An Quốc Công Chúa và phong là Nghĩa Tín Hầu Phò Mã, chủ
động Giáp Thừa Quý được vua gã Lĩnh Nam Công Chúa và phong phò
mã.
Thời kỳ ông trị vì thiên
hạ (1009 - 1028) lấy niên hiệu là Thuận
Thiên.
Khi Lý Thái Tổ lên
ngôi việc đầu tiên là xuống chiếu đại xá cho thiên hạ, bắt tay vào xây dựng một
vương triều thống nhất, thân dân, văn minh, thịnh vượngTriều đình Lý Thái Tổ là
triều đình quân chủ tập quyền, mang tính dân tộc kết hợp tư tưởng Phật giáo,
dung hòa mối quan hệ giữa các dòng tộc với công lao những kẻ tôn phò. Nhờ khéo
léo đặt mối quan hệ với các thế lực tạo được sự thái bình cho dân chúng. . Quần
thần tôn vinh ông các hiệu: Phụng Thiên, Chi Lý, Ứng Vận, Tự Tại, Thánh Minh,
Long Hiện, Duệ Vân, Anh Vũ, Sùng Nhân, Quảng Hiếu, Thiên Hạ Thái Bình,Khâm Minh
Quang Trạch, Chiêu Dương Vạn Bang,Hiển Ứng Phù Cảm, Uy Trấn Phiên Man, Duệ Mưu
Thần Công,Thánh Trị, Tắc Thiên Đạo Chính.
Xuất thân tư một Phật
tử được nuôi dưỡng, đào tạo hoàn hảo bản thân và bước thăng tiến từ quan nhà Tiền Lê đến cân nhắc thành hoàng
đế cũng nhờ thế lực các tu sĩ Phật giáo chi phối. Bởi vậy giới tu hành đóng vai
trò quan trọng dưới triều đại nhà Lý.
Chùa đền được chủ trương trùng tu và xây mới trong cung ngoài thành, khuyến
khích đi tu nên trong dân hơn nửa xuất gia. Ngược lại giới tu hành cũng đã đem
uy lực Phật giáo sắp đặt người nơi cung đình để tranh giành ngôi báu.
Sự quan tâm đặc biệt của
triều Lý trong thơi kỳ này Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh và văn hóa
văn học cũng phát triển theo chiều hướng nầy.
Về phát triển kinh
tế, trong nước nông nghiệp là chính để cung cấp lương thảo cho dân và nộp về
triều đình, vua Lý Thái Tổ đặt quan hệ bang giao hòa hảo với nhà Tông phía Bắc
các nước phía Nam xây dựng giao thương buôn bán xuyên biên giới.
Năm 54 tuổi, ngày 31
tháng 3 năm 1028 ông băng hà tại Điện
Long An, thành Thăng Long.
Táng tại Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, thụy hiệu của
ông là Thần Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu Thái Tổ.
MINH ĐỨC THÁI HẬU
Thân mẫu Lý
Công Uẩn, người họ Phạm, có sách
còn ghi đủ danh tính của bà là Phạm Thị Ngà,
quê ở Hoa Lâm (Mai Lâm), Đông Anh, Hà Nội, cạnh quê nội là làng Đình Sấm (Dương Lôi) Từ Sơn, Bắc
Ninh. Sau khi bà gửi con cho sư Lý Khánh Vân nuôi bà về sống quanh quẩn ở
khoảnh rừng rậm vùng Cổ Pháp và chết đột ngột và kiến mối đã vùi đắp mộ cho bà
cao bảy thước (ĐVSKTB192)
Theo sách Việt sử
tiêu án: Thân mẫu ngài Lý Công Uẩn nghèo, không có chồng, nương tựa lão Sa môn
ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu. Bà mang thai sinh Lý Thái Tổ và nương nhờ
cửa Phật, Lý Khánh Vân nuôi lớn và sư Vạn Hạnh là thầy dạy dỗ.
Bà được vua Lý Thái Tổ lập chùa Càn
Nguyên trên nền cũ chùa Quỳnh Lâm để thờ
Phật và thờ bà sau đó có thêm nơi thờ bà là chùa Cha La tại Dương Lôi ở làng
Phù Chẩn.
Làng Dương Lôi huyện Đông Ngàn là làng
duy nhất trong các làng thuộc hương Cổ Pháp thờ Minh Đức Thái Hậu và tám vị vua
thời Lý làm Thành Hoàng. Hội đền và cũng chính là ngày giỗ bà là ngày mùng 7
tháng Giêng.
Đình Thái Đường nay là Thái Bình có một
vế đối: "Lý triều quốc mẫu cố hương tại" và cặp đối: "Mạch tụ
quân vương truyền thắng địa; Tích lưu Lý mẫu quán danh hương" (Lòng đất
quí sanh ngôi vương đế, quê hương thơm hóa mẹ Lý triều) cũng là nơi thờ bà.
TRINH MINH HOÀNG HẬU
Bà Lê Thị Phất Ngân (黎氏佛銀) là một trong những Hoàng hậu đầu tiên của
triều đại nhà
Lý trong lịch sử Việt Nam.
Bà nguyên là công
chúa con vua Lê Đại Hành và Bảo Quang Hoàng Thái Hậu Dương Vân Nga, là vợ vua Lý Thái Tổ và trở thành mẹ vua Lý Thái Tông. Bà là chị em cùng cha khác mẹ với 2 vua Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều và là em cùng mẹ khác cha với vua Đinh Phế Đế.
Căn cứ vào năm Lê Hoàn lập Dương Vân Nga làm hoàng hậu (981) và năm sinh của Lý Thái Tông
(1000) thì Phất Ngân công chúa (佛銀公主), sinh tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình), khoảng sau năm
981.
Cũng như những hoàng
hậu khác thời phong kiến, trong chính sử, Lê Thị Phất Ngân chỉ được nhắc đến
gián tiếp với vài nét chấm phá như Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển II, Kỷ nhà Lý, mục Lý Thái Tông đoạn mở đầu viết:
"Mẹ là hoàng hậu họ
Lê, sinh vua vào ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7 (1000)
thời Lê, ở phủ Trường Yên."
Khi Thái Tổ lên ngôi hoàng đế, bà được phong
là:
Lập Giáo
Hoàng Hậu và chính là mẫu thân của Lý Phật Mã (Lý Mỗ) - Lý Long Bồ - Lý
Nhật Quang.
Linh Hiển Hoàng Thái Hậu (靈顯皇太后)
"Thái Tổ hoàng đế
sinh thời hàng năm theo thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê
Hoàn ở thành Hoa Lư. Thái Tổ được vua Lê yêu,
cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua lại gả con gái cả là Lê Thị, sinh
ra Lý
Phật Mã và
đặc phong cho Thái Tổ làm Điện Tiền Cận Vệ ở thành Hoa Lư.
Dần dần, Thái Tổ thăng lên
chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc
quốc thích mới được trao. Bước vào bộ máy quyền lực là điều kiện ban đầu để sau
này Thái Tổ lên ngôi vua thay thế nhà Lê".
Cũng theo thần tích
các chùa Duyên Ninh, chùa Nhất Trụ ở cố đô Hoa Lư, sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, nhà Tiền Lê mất ngôi, hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân thường xuyên lui về đô cũ để
cùng hậu thuẫn người con trai Lý Long Bồ mới hơn 10 tuổi
trấn thủ vùng đất này (được phong Vương tháng 6 năm 1013). Tại Hoa Lư, Hoàng hậu giúp dân
tu bổ, xây dựng nhiều ngôi chùa để tu hành và trông coi lăng mộ vua cha Lê Đại Hành.
Tại chùa Duyên Ninh, bà tác hợp cho nhiều đôi lứa nên duyên để rồi chùa Duyên Ninh trở thành ngôi chùa cầu duyên ở cố đô Hoa Lư.
Ngoài ra bà còn được
phối thờ tại các đền sau:
Theo lịch sử để lại,
đền Bạch Mã ở Yên Thành, Nghệ An có từ gần 1000
năm nay, do chính Uy Minh Vương Lý Nhật Quang dựng nên để thờ vọng vua cha Lý Thái Tổ; thờ mẹ là Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân; thờ bà ngoại là
Thái hậu Dương Vân Nga; Vua anh là Lý Thái Tông và các anh hùng, nghĩa sỹ nhà Lý. Hiện tại, trong
đền còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị văn hóa, là nơi gửi gắn tâm linh của
người dân địa phương. Năm 2011, ngôi đền đã được đầu tư nâng cấp tu bổ lại,
phía trước có cổng tam quan, khu vực sân có tắc môn, lư hương, bậc tam cấp.
Phía trong gồm: 3 gian tiền tế có Ban thờ Phật, 2 gian hậu cung là nơi thờ Lý
Thái Tổ và Lê Thị Phất Ngân.
Tại Di tích đền Đô
trên quê hương nhà Lý ở Bắc Ninh, Hoàng thái hậu Lê Thị Phất Ngân được thờ vị
trí trung tâm trong điện Mẫu thờ 7 mẫu hậu của các Vua từ Lý Thái Tông đến Lý
Huệ Tông.
Ở vùng lân cận khu
vực động Hoa Lư thuộc ranh giới 2 huyện Nho Quan và Gia Viễn (Ninh Bình) có rất nhiều di
tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Thái hậu Dương Vân Nga phối thờ Lý Thái Tổ cùng Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân
như đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba, đình Trai, chùa Hưng Quốc, Theo giai thoại,
trước khi rời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã đến những nơi này như để xin ý kiến các bậc tiền
nhân.
Các bà Tá Quốc Hoang
Hậu và Lập Nguyên Hoàng Hậu không có thông tin.
武威王
|
弟
壹
世
代
|
HOÀNG
HUYNH
VŨ UY VƯƠNG
LÝ MỖ
Sử sách chỉ ghi Lý Mỗ là anh của Lý Công Uẩn, khi Lý Công Uẩn
lên ngôi hoàng đế phong tặng cho anh là Vũ Uy Vương và em là Dực Thánh Vương.
Các con của ông là ai không có tài liệu nào đề cập.
Lịch sử không thể không ghi những bậc có tài, có công, có
thể danh phận của ông không mấy rỏ ràng nên lịch sử lãng quên.
ĐỜI
THỨ NHẤT
翊聖王
|
弟
壹
世
代
|
HOÀNG
ĐỆ
DỰC THÁNH VƯƠNG
THÂN
TỬ: TỔNG QUẢN LÝ PHÓ
Dực Thánh vương là em
trai của Lý Mỗ và Lý Công Uẩn. Năm 1009,sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ phong tước Vũ Uy Vương cho anh trai ruột là Lý Mỗ,
phong tước Dực Thánh Vương cho em trai. Con của Dực Thánh Vương là Lý Phó cũng được phong làm Tổng Quản.
Dực Thánh Vương là vị
tướng có đóng góp cho việc bảo vệ biên cương nước Đại Cồ Việt khi nhà Lý mới
thành lập.
Năm 1014, 20 vạn
quân Đại Lý do tướng Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí chỉ huy tiến
quân sang xâm lấn, đóng quân ở trại Ngũ Hoa. Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh. Trận này quân
nhà Lý đại thắng.
Năm 1015, Lý Thái Tổ
lại sai Dực Thánh Vương cùng hoàng tử Vũ Đức Vương đi đánh dẹp các
châu Đô
Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên. Trận này Dực Thánh Vương
bắt được Hà Án Tuấn. Hà Án Tuấn vốn là thủ lĩnh châu
Vị Long. Trước đó, vào năm 1013, Hà Án Tuấn làm phản, theo nước Đại Lý, bị Lý Thái Tổ thân chinh đi đánh, Án Tuấn bỏ chạy.
Năm 1022, Dực Thánh Vương
nhận chiếu đi đánh Đại Nguyên Lịch (Việt sử lược chép là Đại Quang Lịch). Quân nhà Lý
tiến sâu vào trong đất Tống tại trại Như Hồng, đốt phá kho đạn rồi rút về. Từ
sau sự kiện này, không thấy ghi chép gì về việc Dực Thánh Vương cầm quân nữa.
Các cuộc đánh dẹp những năm sau do Thái tử Khai Thiên Vương, Khai Quốc Vương và Đông Chinh Vương thay nhau cầm
quân.
Năm 1028, Lý Thái Tổ
băng hà. Các quan lại trong triều đến cung Long Đức đón Thái tử Khai Thiên Vương
lên ngôi. Dực Thánh Vương, Đông Chinh Vương, Vũ Đức Vương không phục, đem phủ
quân làm binh biến. Đông Chinh Vương cho quân phục ở trong Long Thành, còn Dực
Thánh Vương và Vũ Đức Vương ở cửa Quảng Phúc, chờ Khai Thiên Vương đến thì đánh
úp.
Khai Thiên Vương ban
đầu muốn cho người thuyết phục ba vương tự rút quân, nhưng sau đó được Lý Nhân Nghĩa thuyết phục, Lý Nhân Nghĩa và Lê Phụng Hiểu dẫn vệ sĩ ra đánh. Lê Phụng Hiểu chém chết Vũ Đức Vương,
quân ba vương sợ hãi bỏ chạy. Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương chạy trốn.
Dực Thánh Vương cùng
với Đông Chinh Vương, Vũ Đức Vương được thờ phụng tại nhiều nơi, như khu vực Hải Phòng.
Dực Thánh Vương được
thờ làm Thành hoàng ở Đình An Bảo. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương
được thờ tại Đình Thông Tây Hội.
Hoàng thân Lý Phó là con trai của ông có nói đến
với chức vụ Tổng Quản, sau đó không
có thêm thông tin nào nữa nên vào đời thứ hai không mở thêm trang cho ông Lý
Phó.