Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng

CẦN PHẢI MINH OAN CHO THỐNG QUỐC THÁI SƯ TRẦN THỦ ĐỘ


Thử soi lại vụ án:


“Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông và sát hại tôn thất nhà Lý” trên tinh thần Khoa học Tâm linh.  

Nhà Trần có công rất lớn đối với lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Tuy nhiên mỗi lần đọc lại lịch sử sự kiện Trần Thủ Độ “giết vua và giết hết  tôn thất nhà Lý”  khiến ai cũng cảm thấy bất nhẫn và bùi ngùi. Hãy thử soi lại vụ án này trên tinh thần khoa học và Tâm linh.


Tượng Thái sư Trần Thủ Độ ở chùa Hồng Ân (Bắc Ninh).
Trần Thủ Độ
陳守度
Trung Vũ Đại Vương
Chân dung Trần Thủ Độ
Tể tướng Đại Việt
Thông tin chung
Phối ngẫuTrần Thị Dung
Thụy hiệuThượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại vương
尚父太師忠武大王
Thân phụchưa rõ
Thân mẫuchưa rõ
Sinh12 tháng 21194
Tức MặcĐại Việt
Mất22 tháng 21264
Thăng LongĐại Việt

spacer

Mê đắm những chuyện kể về di sản bài chòi

Lời ca mượt mà truyền theo dây tơ tâm tình với bạn trên gò đồi hay ruộng đồng giữa đêm thanh. Khúc hát giãi bày tâm tư đưa người đến với người, gắn kết lứa đôi. Qua thời gian, bài chòi càng làm say đắm bao người.

Một liên hoan nghệ thuật bài chòi tại TP.Quy Nhơn, Bình Định
ẢNH: ĐÀO TIẾN ĐẠT

Hát xua nỗi buồn những đêm canh thú dữ

Nghệ nhân ưu tú Võ Duy Khánh ở xã Phổ Cường (H.Đức Phổ, Quảng Ngãi) rất hào hứng mỗi khi nói về dân ca bài chòi. Gần trọn cuộc đời, ông gắn bó với những câu hát mượt mà, sâu lắng như tiếng lòng của người dân quê. Bao năm mê đắm bài chòi, ông tìm hiểu và khá am tường về loại hình nghệ thuật lưu truyền qua bao thế hệ. Trò chuyện với ông, giúp tôi hiểu thêm bao điều thú vị về di sản văn hóa phi vật thể trên dải đất miền trung đầy nắng gió.


Thuở trước, thú rừng thường rời núi xuống ruộng đồng hay gò đồi phá hoại lúa, hoa màu, gia súc của người dân quê nhọc công chăm bón, nuôi trồng. Cư dân trong làng dựng những chiếc chòi cao để tránh thú dữ và bảo vệ mùa màng. Đêm đến, trai tráng và thôn nữ trong làng rời nhà rồi leo lên chòi cao để canh chừng muông thú gây hại thành quả gieo trồng. Khi phát hiện thú rừng, họ liền hô to rồi gõ mõ tre xua đuổi chúng về chốn non cao.
Đêm tịch liêu, nỗi buồn xâm chiếm cõi lòng những người trẻ trung, căng tràn sức sống như thân cây rạo rực đâm chồi giữa ngày xuân. Những câu hò, điệu lý lướt bay trên cỏ cây làm vơi đi nỗi buồn trong đêm thanh vắng.
Hội Bài Chòi Bình Định. Ảnh: Hồ sơ, tư liệu Cục Di sản văn hóa

Rồi lời ca tâm tình giữa hai căn chòi được kết nối qua phương tiện truyền âm khá hiện đại thời bấy giờ. Họ dùng ống tre rỗng bịt một đầu bằng da ếch phơi khô, ở giữa miếng da đục lỗ nhỏ rồi xỏ sợi tơ tằm gắn với ống tre gắn da ếch phía chòi bên kia. Khi người này hát, người kia áp ống vào tai để nghe những ca từ giản dị thấm đẫm nghĩa tình.

Lay động tâm hồn, se duyên đôi lứa

Khúc hát chân quê bày tỏ nỗi lòng thầm kín: Thân em như cái giường lèo (giường uốn lượn làm bằng tre)/Thân anh như chiếu rách chèo queo xó hè/Cầu trời cho gió thổi lên/Cho manh chiếu rách nằm trên giường lèo... làm lay động tâm hồn, se duyên đôi lứa.
Bài chòi dần làm say đắm bao người khi có tiếng đàn, nhịp phách phụ họa, nâng lời ca bay bổng giữa chốn quê. Xóm làng dần đông đúc, nhiều người thường tụ họp để hát và nghe bài chòi sau những giờ lao động vất vả trên ruộng đồng. Dân ca bài chòi ngày càng phong phú và hấp dẫn với sự đóng góp của những "nghệ sĩ chân quê" tài hoa. Họ ứng tác trước đám đông với lời ca mượt mà bày tỏ nỗi niềm, hát về khung cảnh yên bình nơi làng quê, ngợi ca những bậc tiền nhân có công mở mang xóm làng...
Loại hình nghệ thuật dân gian này càng thu hút dân chúng với hội đánh bài chòi vào dịp Tết, lễ hội khi nhiều người "rủ nhau đi đánh bài chòi/để cho con khóc tới lòi rún ra". Trên bãi đất trống là những căn chòi nhỏ thơm hương rơm vừa gặt từ đồng làng. Sau hồi trống chầu, âm thanh của nhiều loại nhạc cụ ngân vang phụ họa dẫn dắt vào cuộc vui chơi. Tiếng cười nói rộn ràng lẫn trong giọng hát của anh, chị hiệu (người hô thai) cùng tiếng mõ giục giã dân làng tụ tập chơi hội.
Một nghệ sĩ hát bài chòi tại hội xuân
Ảnh: ĐÀO TIẾN ĐẠT
Cạnh chòi, trẻ thơ tung tăng khoe áo mới, nam thanh nữ tú buông lời tán tỉnh và đong đưa ánh mắt trao tình. Lời ca chợt ngừng khi hồi mõ kéo dài báo hiệu có người thắng trong cuộc chơi với nụ cười rạng rỡ trên gương mặt sạm đen vì nắng gió. Người thắng hân hoan nhận thưởng với lời hát chúc mừng của anh, chị hiệu hòa cùng tràng vỗ tay vang dậy, khích lệ tinh thần người chơi. Mọi người tiếp tục mua thẻ bài và cuộc chơi kéo dài đến tận đêm khuya.
"Bài chòi xuất hiện từ khi người Việt vào mở mang, khai phá đất phương Nam với lời hát đối đáp đơn sơ giữa những người dân quê chân chất. Sau đó, cụ Đào Duy Từ sáng tạo ra hội chơi bài chòi khá độc đáo, thu hút nhiều người tham gia. Vùng đất Đức Phổ giáp ranh với Hoài Nhơn (Bình Định, nơi cụ Đào Duy Từ cư ngụ và được xem là đất tổ của hội đánh bài chòi - PV) nên bài chòi khá phát triển...", nghệ nhân Võ Duy Khánh chia sẻ. 
"Chúng tôi khuyến khích các đơn vị, địa phương dàn dựng và biểu diễn những tiết mục bài chòi nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức của khán giả. Những tiết mục như thế luôn được người xem nhiệt liệt hoan nghênh...", ông Nguyễn Thanh Sơn, Phó giám đốc Trung tâm Truyền thông Văn hóa Thể thao huyện Đức Phổ cho biết.
Bạn Võ Thị Nguyệt Vy tâm sự: "Bài chòi tuy khó hát nhưng khi hát được thì cảm thấy êm ấm, da diết đi sâu vào trong lòng người, dễ cảm động. Đây là loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc cần lưu giữ, đặc biệt là giới trẻ. Vậy nên em rất yêu thích bài chòi...".
Qua bao thăng trầm, bài chòi vẫn "cháy âm ỉ" trong tim nhiều người mê đắm những lời ca mượt mà thấm đẫm tình quê. Những lời ca ấy lưu truyền qua bao thế hệ, gắn kết yêu thương cho đời thêm tươi đẹp.
Năm 2018, UNESCO công nhận Nghệ thuật bài chòi Trung bộ (Việt Nam) là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Trang Thy -Thanh Niên


spacer

Hoang tàn mộ phần phi tần bạc mệnh



Từng là phi tần của vua Thành Thái nhưng một người con của làng Hội Kỳ (xã Hải Chánh, H.Hải Lăng, Quảng Trị) là bà Dương Thị Ngọt đã chết một cách đầy bí ẩn. Ngày nay, ngôi mộ của bà vẫn còn đó, nhưng hoang phế đến mức tội nghiệp như chính cuộc đời của giai nhân này…







Cái chết bí ẩn
Đến tận bây giờ, đi dọc dòng Ô Lâu hỏi ai là người phụ nữ tài sắc bậc nhất của vùng quê kiểng này, hẳn người am tường vẫn còn nhắc tên bà Dương Thị Ngọt. Bà được ví như sinh ra từ dòng nước sông mát lành.
Dương Thị Ngọt là con gái của ông Dương Quang Xứng, người từng giữ đến chức Bố Chính tỉnh Khánh Hòa (quan trông coi tài chính cho tỉnh). Sử xưa kể lại rằng trên con đường hoạn lộ, dù làm gì, ở đâu ông Xứng cũng mang cô con gái rượu là Dương Thị Ngọt theo cùng.
Càng lớn lên, Dương Thị Ngọt càng xinh đẹp. Chính vì thế, bà nhanh chóng lọt vào mắt xanh của vua Thành Thái. Bà Ngọt được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, bậc chín, được hưởng lương 180 quan tiền và 48 vuông gạo. Bà sinh được một hoàng nam nhưng bị đau chết, khi mới một tuổi.

 
Mộ bà phi tần Dương Thị Ngọt nằm giữa bãi đất trống sau làng Hội Kỳ


Cái chết của phi tần Dương Thị Ngọt gắn liền với những giai thoại bí ẩn. Chuyện rằng, khi đã là người của vua, bà Ngọt được sủng ái muôn phần, nên bị các bà phi khác đố kỵ. Có tích rằng, những người này đã lừa cắt của bà Ngọt một nắm tóc (điều cấm kỵ đối với phi tần thời phong kiến) rồi mật báo cho vua Thành Thái. Vua nổi giận lôi đình nên đưa bà Ngọt ra xử chém.
Nhưng cũng có một tích khác do ông Dương Quang Diêu (sống ở làng Hội Kỳ, cháu họ của bà Ngọt đời thứ 3) kể thì có vẻ như bà Ngọt chết chỉ bởi… một câu nói. Chuyện rằng, vua Thành Thái thường cắt tóc ngắn, dạo đó sau khi cắt tóc, vua đi hỏi các bà phi xem có đẹp không. Trong khi các bà đều ve vuốt, khen đẹp thì bà Ngọt lại nói trớ ra rằng: “Trông giống như kẻ cướp ấy”. Chỉ vì câu nói này, bà Ngọt phạm tội khi quân, đã bị nấu trong vạc dầu đến chết. Tuy nhiên, cũng có người phản đối tích này vì cho rằng triều Nguyễn ngày xưa không sử dụng hình thức vạc dầu để xử tử.
Dù ra lệnh xử tử bà Ngọt nhưng cũng chính vua Thành Thái lại tổ chức hậu sự cho ái phi của mình hết sức trọng thị, đúng lễ nghi. Theo lời kể đầy tự hào của ông Diêu thì quan tài bà Ngọt được đưa từ kinh thành Huế về làng Hội Kỳ bằng đường sông, trên thuyền rồng. Khi lên bờ, các phu phen gánh quan tài đi đến đâu thì rải chiếu hoa đến đấy. Sau khi an táng, nhà vua còn cử 4 từ phu coi lăng và cấp ruộng đất cho những người này như cách để trả công.

Cái chết của phi tần Dương Thị Ngọt gắn liền với những giai thoại bí ẩn


Cho đến hiện nay, nhiều người vẫn coi câu chuyện của bà Ngọt là “tình sử Ô Lâu”. Còn theo nhà báo Nguyễn Hoàn, Phó giám đốc Sở Thông tin Truyền thông, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị (người từng có chuyến điền giả để lần theo dấu vết cuộc tình này) thì còn nhiều hoài nghi trong các chết của bà Ngọt.
“Nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc của bà Ngọt có liên quan sâu xa gì đến tâm sự u uất của vua Thành Thái không? Ông vua yêu nước Thành Thái đã từng giả điên để che giấu mưu đồ chống Pháp (bởi thế mà ông từng được mệnh danh là “vua điên”). Quyền hành nhà vua bị thực dân Pháp thu hẹp dần, mọi cải cách nhà vua đưa ra đều bị cản trở. Cả đến những cử chỉ “duy tân” của nhà vua như tự lái xe hơi, lái xuồng máy, cắt tóc ngắn... cũng bị khâm sứ Pháp và bọn bồi Tây dò xét, nghi ngại. Thậm chí, chúng còn phao tin nhà vua điên thật để kiếm cớ truất phế. Vậy cái chết của bà Ngọt có liên quan gì đến chuyện “giả điên” của vua Thành Thái không, có liên quan gì đến một khúc quanh của lịch sử không?”, ông Hoàn đặt vấn đề.
 
Xót xa bên mộ người xưa
Một ngày giữa tháng giêng năm Mậu Tuất 2018, men theo con đường mòn dẫn ra một khoảng đất trống hoang vắng phía sau làng Hội Kỳ, chúng tôi đến được khu vực mộ của bà Dương Thị Ngọt. Qua thời gian, ngôi mộ vợ vua Thành Thái đã xuống cấp nghiêm trọng, làm cho những ai chứng kiến đều không khỏi xót xa.

 
Bên trong khu vực mộ của bà Dương Thị Ngọt
Dẫu rằng, qua những gì còn sót lại có thể thấy so với ngày trước, đây là một lăng mộ bề thế, lại được đặt ở vùng thôn quê như Hội Kỳ thì hẳn không thể có cái nào lớn hơn vào thời kỳ đó. Lăng được xây tường gạch bao quanh, có cổng vòm, diện tích bên trong chừng 20 m2, phía chính giữa là ngôi mộ bà Ngọt cùng bia đá. Hiện nay, hầu như các hạng mục của khu vực mộ bị xuống cấp nặng, xung quanh cỏ dại mọc um tùm.
Chúng tôi phải lấy khăn chùi lớp bụi trên bia đá mới thấy được những Hán tự khắc bên trên: “Hoàng triều cửu giai tài nhân thụy Thục Thuận Dương thị chi tẩm. Thành Thái thập tam niên bát nguyệt cát nhật tại”.Tạm dịch: “Lăng của bà họ Dương, bà phi của nhà vua được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, có tên thụy là Thục Thuận, lăng được dựng vào ngày lành, tháng 8, năm Thành Thái thứ 13”.


 Được biết, trước đây gia đình bà Dương Thị Ngọt có lưu giữ một tờ sắc phong cổ nhưng sau đó có nhà báo đến tìm hiểu, mượn tờ sắc phong cổ đó nhưng không trả lại nên giờ thất lạc đâu không rõ.




    

 
spacer

Về các loại dấu triện kim bảo trên sắc phong thần 1428- 1945

Trong nhiều di tích lịch sử văn hóa đình, đền, miếu thờ ở nước ta còn lưu giữ nhiều đạo sắc phong thần do các triều vua Lê, Mạc, Tây Sơn  và Nguyễn ban cấp.. Trải qua thời gian mấy trăm năm, mặc dù được bảo quản trong hộp gỗ nhưng tới nay một số đạo sắc phong đã bị sờn, rách, chuyển màu vàng nhạt hay hồng nhạt. Đây là những cổ vật bằng chất liệu giấy hiếm quý. Tình trạng các đạo sắc phong này rất cần thiết phải bảo quản theo phương pháp khoa học để bảo tồn lâu dài.

Về kích thước, các đạo sắc phong đều có hình chữ nhật, phổ biến có chiều dài trong khoàng 119cm đến 140cm và rộng từ 44cm đến 53cm. Đặc biệt, sắc phong đời Cảnh Hưng hiện lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia có chiều dài 195cm, rộng 60cm.
Loại giấy dùng làm sắc là giấy dó có độ dai và dày, thường gọi là giấy Nghè vì làm tại làng Nghè, làng Nghĩa Đô huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đây là loại giấy đặc biệt chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng . Trên mặt trước của mỗi đạo sắc thường có diềm vẽ nền gấm chữ Vạn, bên trong diềm vẽ trang trí hình Rồng, mây và chữ Thọ. Nội dung của đạo sắc là bài minh chữ Hán viết tay nên tự dạng khá phong phú. Mỗi bài minh đều có cấu trúc khá giống nhau, đọc từ phải sang trái. Dòng cuối cùng ghi niên hiệu của triều vua và ngày tháng ban cấp đạo sắc. Trên dòng chữ này có đóng một dấu Kim bảo màu son đỏ với 4 chữ Hán theo kiểu Triện thư. Dấu triện này có thể xem như biểu tượng linh thiêng của nhà Vua. Đó là các chữ Tiên Nhu Chi Bảo Sắc Mệnh Chi Bảo. Nhưng ngẫu nhiên trong số 15 đạo sắc phong thần còn lưu giữ tại Miếu Cầu Vương ở thôn Thuận Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, Hà Nội, chúng tôi thấy đạo sắc phong ngày 21 tháng 7 (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh (1821), dấu triện là Phong tặng chi bảo.  Vì vậy, bài viết này xin làm rõ hơn về các dấu triện trên các đạo sắc phong  thần từ thời Lê Sơ đến thời Nguyễn, 1428-1945.

Trước tiên, chúng tôi nêu qua nghi thức đóng dấu kim bảo dưới triều Nguyễn để bạn đọc tham khảo. Các kim ngọc bảo tỷ được cất giữ ở điện Trung Hòa trong Càn Thành. Mỗi khi Nội các dùng đến kim bảo nào thì do Cung giám phụng mang kim bảo đó ra. Mỗi lần đóng dấu kim bảo Ngự tiền chi bảo , Văn lý mật sátSắc mệnh chi bảo, quan Nội các hiệp đồng với Bộ quan đương trực, thiết án giữa Tả vu của điện Cần Chánh để hầu bảo. Khi dùng đến những bảo tỷ khác quan trọng hơn phải theo một thủ tục riêng. Trước hết, cơ quan có trách nhiệm làm phiến tấu trình lên Hoàng đế để xin phép định ngày’’ hầu bảo’’. Đúng ngày định kỳ đã được phê duyệt, án được thiết lập tại điện Cần Chánh. Quan Nội hầu thỉnh tráp đựng ấn ra. Vệ binh cầm kiếm tuốt vỏ đứng hầu hai bên án. Quan Nội các và Bộ quan đương trực mặc phẩm phục bước vào chiếu, mở tráp ấn ra để đóng dấu. Khi ấn được đóng xong, kim bảo được đặt lại vào tráp. Quan Nội các niêm phong giao cho Nội thần nhận thỉnh cất giữ. Mỗi lần đóng ấn về việc gì, Hội đồng phải lập biên bản và ghi vào sổ để theo dõi. Như thế, nghi thức đóng dấu kim bảo của triều Nguyễn rất trang nghiêm và quy củ chặt chẽ mang tính chất nghi thức của quốc gia.

1. Dấu triện Tiên nhu chi bảo.

Ảnh 1. Dấu Tiên nhu chi bảo trên sắc phong thần Miếu Cầu Vương, ngày 5 tháng 5(Âm lịch) năm thứ 5 niên hiệu Quang Trung (1792).
Khi tìm hiểu các đạo sắc phong dưới thời Tây Sơn (1778-1802), các nhà nghiên cứu thấy xuất hiện dấu triện Quảng vận chi bảo đóng trên các văn bản niên hiệu Thái Đức 10 và 11(1787-1788); niên hiêụ Quang Trung 2 (1789), Quang Trung 5 (1792). Dấu Triều Đường chi ấn đóng trên văn bản niên hiệu Quang Trung 5 (1792). Các loại dấu triện này không rõ được được đúc hay khắc bằng chất liệu gì. Nhưng hình dấu son có thể thấy trên sách La Sơn phu tử ( Hoàng Xuân Hãn, 1952) hay sách Ấn chương Việt Nam (Nguyễn Công Việt, 2005). Ngoài ra ,thời Tây Sơn còn dùng 2 dấu triện khác là Sắc mệnh chi bảo và Tiên nhu chi bảo đóng trên các đạo sắc phong thần.

Về dấu triện Sắc mệnh chi bảo  thời Tây Sơn, đến nay chỉ thấy duy nhất trên tờ tư liệu của cụ Hoa Bằng ghi lại ngày 11 tháng 12 năm 1949. Bản này in lại trang 267 của sách Ấn chương Việt Nam (Nguyễn Công Việt, 2005, tr.267). Đây là đạo sắc phong cho Phan Huy Ích chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thị trung Ngự sử , tước Thụy Nham hầu, ngày 18 tháng 4 nhuận, năm Quang Trung 5(1792). Thật tiếc cho đến nay không còn một đạo sắc nào để truy cứu so sánh. Nhưng xem hình dấu, tôi thấy khác hẳn với tự dạng trên dấu triện Sắc mệnh chi bảo thời Lê. Chữ Sắc mệnh kiểu Triện thư, với chữ Mệnh nhô hẳn lên chữ Sắc . Nhưng 2 chữ chi bảo lại giống dấu Tiên nhu chi bảo. Chữ chi có uốn gấp khúc, cân đối.
Theo Nguyễn Công Việt, dấu triện Tiên nhu chi bảo được xem là dấu chỉ dùng dưới thời Tây Sơn. Dấu triện có cạnh vuông 15,2cm x 15,2cm. “ Ý nghĩa là các vị thần phù trợ cho mưa thuận gió hòa, mầm lúa mọc tươi tốt”. Dấu triện này trên đạo sắc phong năm Quang Trung 3 (1790). Chúng tôi thấy trên đạo sắc phong thần ngày 5 tháng 5, năm Quang Trung 5 (1792) ở Miếu Cầu Vương (Ảnh 1).  Như vậy, dấu triện Tiên nhu chi bảo được sử dụng phổ biến trên các đạo sắc phong thần thời Tây Sơn.

2. Dấu Kim bảo 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo
Cho đến nay các tài liệu cho biết những đạo sắc phong thần còn lưu giữ được sớm nhất là thời Lê Sơ (1428-1527). Nhưng nhiều nhất vẫn là thời Lê Trung hưng, thế kỷ 17-18. Trên các đạo sắc phong thần thời Lê đều thấy đóng dấu triện son Sắc mệnh chi bảo. Dấu triện này có kích thước 11,5cm x 11,5cm. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép vào năm thứ 2 niên hiệu Thiệu Bình (1435), hoàn thành đúc 6 quả ấn bằng vàng, bạc là :
Thuận Thiên thừa vận chi bảo , dùng khi truyền ngôi.
Đại Thiên hành hóa chi bảo, dùng khi xuất binh đánh dẹp.
Chế cáo chi bảo, dùng khi ban chế, chiếu ra thiên hạ.
Sắc mệnh chi bảo, dùng khi có sắc dụ và hiệu lệnh thưởng phạt cùng các việc lớn khác.
Ngự tiền chi bảo, dùng đóng vào giấy tờ sổ sách.
Ngự tiền tiểu bảo, dùng khi có việc cơ mật.(Đại Việt sử ký toàn thư,1972,t3,tr.102)
Như vậy, sử liệu này cho biết rõ dấu triện Sắc mệnh chi bảo được đúc vào năm 1435. Nhưng trên  các văn bản thế kỷ 15 có đóng dấu này còn lại đến nay thực là hiếm.Trên đạo sắc phong cho Phụ chính Tham tướng Phạm Như Tăng làm Trung quân Đô thống tạm quyền lãnh ấn tiên phong chỉ huy 10 đạo binh tiến đánh Chiêm Thành có đóng dấu Sắc mệnh chi bảo trên dòng niên hiệu Hồng Đức 2 (1471) .(Nguyễn Công Việt,2005, tr. 111) .

Dưới thời Mạc (1527-1592), theo Nguyễn Công Việt, những vấn đề đại sự quốc gia đựơc ban bố ra quốc dân thiên hạ như chiếu, chỉ, cáo, sắc vv…nhà Mạc vẫn dùng theo cách của nhà Lê Sơ, các văn bản này đều được đóng dấu Kim bảo Sắc mệnh chi bảo của nhà Lê.  Sắc phong thần ở thời Mạc còn lại đến nay cũng rất ít. Tại đền Quang Lãng, xã Thụy Hải, huyện Kiến Thụy, tỉnh Thái Bình còn 3 đạo sắc phong thần vào ngày 5 tháng 12, năm đầu niên hiệu Minh Đức (1527); ngày 10 tháng 6, năm đầu niên hiệu Quảng Hòa (1540); ngày 28 tháng 4, năm đầu niên hiệu Cảnh Lịch (1548). Cũng như đạo sắc phong thần ở đình Tử Dương , huyện Thường Tín, Hà Nội, ngày 6 tháng 11, năm Sùng Khang 9 (1576). Các đạo sắc này đều đóng dấu Sắc mệnh chi bảo.
Dưới thời Lê Trung hưng (1533-1788), trên các đạo sắc phong thần chỉ duy nhất dùng dấu Sắc mệnh chi bảo , là Kim bảo đúc từ thời Lê Sơ. Các bản sắc phong từ niên hiệu Vĩnh Tộ 8 (1626) cho đến niên hiệu Vĩnh Khánh 2 (1730) in trong sách của Nguyễn Công Việt đều thấy dấu triện này. (Nguyễn Công Việt, 2005,tr.203-206).

Chúng tôi thấy 3  đạo sắc phong thần tại Miếu Cầu Vương,  ngày 8 tháng 8, năm Cảnh Hưng 28 (1767); ngày16 tháng 5 và ngày 26 tháng 7, năm Cảnh Hưng 44 (1783)  đều đóng dấu Sắc mệnh chi bảo. Dấu son trên các đạo sắc thời Lê Trung hưng đều giống nhau về kiểu chữ và kích thước chứng tỏ được đóng từ một Kim bảo. Cũng thật tiếc là dấu Kim bảo ấy nay không còn.
Cho đến nay chỉ may mắn còn lại Kim bảo 敕 命 之 寶 Sắc Mệnh Chi Bảo của triều Nguyễn ,hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, LSb.34447 (Ảnh 2)


nh 2: Kim bảo Sắc mệnh chi bảo đang lưu giữ và trưng bầy tại Bảo tàng lịch sử quốc gia.
                                                                                      (BẢO VẬT QUỐC GIA)
Kim Bảo: Sắc mệnh chi bảo, cao 11,0cm; cạnh 14,0cm x 14,0cm, dầy 2,5cm. Kim bảo có 2 cấp hình vuông, quai rồng cuộn ngồi xổm, đầu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xoè 9 dải hình ngọn lửa, chân rồng 5 móng. Lưng kim bảo khắc 2 dòng chữ Hán:
– Bên trái: 十 歲 皇 金 重 二 百 二 十 三 両 六 錢 Thập tuế hoàng kim, trọng nhị bách nhị thập tam lượng lục tiền. (Vàng 10 tuổi, nặng 223 lạng 6 tiền, [khoảng 8,3kg]) .
– Bên phải: 明 命 八 年 十 月 吉 日 造 Minh Mệnh bát niên thập nguyệt cát nhật tạo. (Đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mệnh 8, 1827).
Mặt Kim bảo đúc nổi 4 chữ Triện trong khung diềm: 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo. (Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân & Nguyễn Công Việt, 2009, tr.23,126-127). Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, có đoạn chép lời Dụ của vua Minh Mệnh năm 1828: “Từ trước đến nay phong tặng cho các thần kỳ cùng văn võ quan phẩm, thì đều dùng ấn 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo. Nay mới đúc ấn 敕 命 之 寶 Sắc mệnh chi bảo, từ nay phàm có ban cấp cho văn võ, phong tặng cho thần dân đều cho dùng.” ( Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 1993,tr. 34).

3. Dấu Kim bảo 封 贈 之 寶 Phong Tặng Chi Bảo
Theo tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Kim bảo 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo, LSb.35184, được đúc bằng bạc , cao 7,0cm; cạnh vuông 10,88cm x 10,88cm,  dầy 2,42cm (Ảnh 3) .Quai hình tượng rồng tư thế đang chạy, đầu ngẩng, lưng uốn, 4 chân chùng, đuôi hình dải mây. Mặt trên Kim bảo  hình vuông, 4 mặt bên vát hình thang, phía dưới hình chữ nhật. Lưng kim bảo khắc 2 dòng chữ Hán:

Ảnh 3: Kim bảo Phong tặng chi bảo đang lưu giữ và trưng bầy tại Bảo tàng lịch sử quốc gia.
– Bên trái: 封 贈 之 寶 重 八 笏 四 両 Phong tặng chi bảo, trọng bát hốt tứ lạng. (Ấn phong tặng chi bảo, nặng 8 thoi 4 lạng).
– Bên phải: 壬 戌 春 正月吉日監 造 Nhâm Tuất xuân , chính nguyệt cát nhật, Giám tạo. (Giám tạo vào ngày lành tháng Giêng mùa xuân năm Nhâm Tuất, 1802).
Mặt kim bảo đúc nổi 4 chữ Triện 封 贈 之 寶 Phong tặng chi bảo, kiểu chữ cùng đặc điểm 3 chiếc Kim bảo khác như Chế cáo chi bảo, Sắc chính vạn dân chi bảo, Trị lịch minh thời chi bảo.( Nguyễn Đình Chiến, 2015,tr. 35-36).
Ấn này dùng đóng trên các đạo sắc, cáo, phong tặng cho các quan văn võ, công thần hay nhân thần . Như vậy, với thông tin này cho biết, các đạo sắc phong thần của triều Nguyễn, kể từ năm 1802 đến 1827, khoảng 25 năm, đều dùng dấu triện Phong tặng chi bảo.
Theo Nguyễn Công Việt, trên đạo sắc phong thần ở đình thôn Đoài, xã Phù Xá, huyện Kim Anh, tỉnh Bắc Ninh có đóng dấu Phong tặng chi bảo ở dòng cuối Minh Mệnh nhị niên thất nguyệt nhị thập nhất nhật. Nghĩa là vào ngày 21 tháng 7 (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh,1821.(Nguyễn Công Việt, 2005,tr.309).
Cùng với đạo sắc phong thần ở Miếu Cầu Vương, ngày 20 tháng 7, (Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh, 1821, có đóng dấu Kim bảo Phong tặng chi bảo là các minh chứng trùng khớp giữa thư tịch và thực tế (Ảnh 4).
Ảnh 4: Dấu Phong tặng chi bảo trên sắc phong thần Miếu Cầu Vương, ngày 21 tháng 7(Âm lịch) năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh (1821).
 
Tóm lại, qua các triều vua , từ  thời Lê Sơ đến thời Nguyễn , chúng ta thấy trên các đạo sắc phong thần đã sử dụng những loại dấu triện Kim bảo như sau:
– Thời Lê Sơ (1428-1527) , năm 1435, đúc kim bảo Sắc mệnh chi bảo,cạnh mặt ấn 11,5cm x 11,5cm.
-Thời Mạc (1527-1592), sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo trên.
– Thời Lê Trung hưng (1533-1788), sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo trên.
– Thời Tây Sơn (1788-1802), đúc mới và sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo khác cùng dấu Tiên nhu chi bảo.
– Thời Nguyễn (1802-1945), từ năm 1802-1827 sử dụng dấu Phong tặng chi bảo còn từ 1828-1945, sử dụng dấu Sắc Mệnh chi bảo.
    Việc nghiên cứu các dấu triện Kim bảo này, không chỉ làm rõ về những loại dấu triện đóng trên các đạo sắc phong thần từ 1428 đến 1945 mà còn có ý nghĩa với công tác giám định sắc phong thật và giả trong tình hình hiện

TS. Nguyễn Đình Chiến 
Nguyên PGĐ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Đình Chiến,2015,  Giải mã minh văn trên các bảo vật triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
2.Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân & Nguyễn Công Việt, 2009, Kim ngọc bảo tỷ của Hoàng đế và Vương hậu triều Nguyễn Việt Nam.BTLSVN xb.
3.Nguyễn Công Việt, 2005, Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX. NXB KHXH Hà Nội.
Đại Việt sử ký toàn thư,1972, t. 3 ,Nxb KHXH Hà Nội.
4.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 1993, Nxb .Thuận Hóa, Huế.
5.Hoàng Xuân Hãn ,1952, La Sơn phu tử, Nxb Minh Tân, Paris.
6. Nguồn: luutruquocgia1.org.vn


spacer

Về sắc phong đền thờ vị thần trống đồng ở nước ta

Đền Đồng Cổ là đền thờ vị thần Trống Đồng có công lao với nước. Đền Đồng Cổ được vua Lý Thái Tông cho xây dựng vào năm 1028 tại thôn Nam, Đông Xã, Yên Thái (nay là số 353 phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội), đến nay đã được gần 1000 năm. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, qua nhiều thời đại mà đền vẫn sừng sững nguy nga. Trải qua nhiều thời kỳ đều được phong tặng sắc phong, được tôn sùng. Đền mang giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện lòng trung thành và yêu nước của người Việt Nam.

Sân trước đền Đồng Cổ, nguồn sưu tầm: vanhien.vn

Đền thờ thần Trống Đồng, đền gắn với một truyền thuyết lịch sử. Sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi rằng vào năm 1028 thời vua Lý Thái Tông: “Phong tước cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề. Trước đây, một hôm trước khi ba vương làm phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm. Đến đây xuống chiếu giao cho ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung mong thần minh giết chết”. Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hằng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ, chuyển sang ngày mồng 4 tháng 4”[1]. Hiện nay đền còn lưu giữ được 14 đạo sắc phong cổ: 4 đạo thời Lê, 6 đạo thời Tây Sơn, 4 đạo thời Nguyễn. Số sắc phong này hiện được lưu trữ và bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, nhận thấy đây là số sắc phong quý nên chúng tôi xin giới thiệu một số đạo sắc tiêu biểu.

Sắc phong 1:



 Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
Phiên âm:
Sắc Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Đại Vương, sơn xuyên chung tú, kì điện phân phù, liễm ngũ phúc dĩ tích dân xích tử đồng đăng xuân thọ, hiệp bách linh nhi hộ quốc, hồng cơ vĩnh điện Thái Bàn, kí chiêu đốc bật chi công, hạp cử bao phong chi điển vi. Tự vương tiến phong vương vị lâm cư chính phủ, lễ hữu đăng trật, ứng gia phong mĩ tự nhị tự, khả gia phong: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Đại Vương. Cố sắc!
Cảnh Hưng tứ thập tứ niên ngũ nguyệt thập lục nhật.

Dịch nghĩa:
Sắc cho Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận  Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Đại Vương, núi sông chung đúc tươi đẹp, cõi đất phiên trấn, thu ngũ phúc để ban cho con dân cùng lên vực thọ, hòa hợp với bách linh mà che chở cho đất nước, cơ đồ mãi mãi vững như điện Thái Bàn, đã sáng rõ công lao to lớn lại hợp được bao phong làm (mặc tướng). Trẫm tiến phong vương vị đến ở chính phủ, theo lễ thăng bậc, gia phong mĩ tự hai chữ. Xứng đáng được gia phong là: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Phúc Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Thùy Hưu Diên Phúc Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Khánh Thái Bình Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Duệ Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Đại Vương. Vậy nên sắc!
Ngày 16 tháng 5 năm Cảnh Hưng 44 (1783).

 Sắc phong 2:



Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
 Phiên âm:
Sắc Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ  Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Đại Vương, sơn xuyên chung tú, kì điện phân phù, liễm ngũ khánh dĩ tích dân xích tử đồng đăng thọ vực, hiệp bách linh nhi hộ quốc hồng cơ, vĩnh điện Thái Sơn, kí chiêu bảo tá chi công, hạp cử bao phong chi điển vi mặc tướng. Quốc gia phi xiển, hồng đồ quang ứng tuấn mệnh, lễ đương đăng trật, ứng gia phong mĩ tự nhị tự: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ  Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Hồng Du Vĩ Liệt Đại Vương. Cố Sắc!
Quang Trung Tam niên thập nguyệt thập nhị nhật.

Dịch nghĩa:
Sắc cho Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hựu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Đại Vương, núi sông chung đúc tươi đẹp, cõi đất phiên trấn, thu ngũ khánh  để ban cho con dân cùng lên đài xuân vực thọ, hòa hợp với bách linh mà che chở cho đất nước, cơ đồ mãi mãi vững như Thái Sơn, đã sáng rõ công lao che chở lại hợp được bao phong làm mặc tướng. Quốc gia mở mang rộng lớn, cơ đồ rạng ứng mệnh to, theo lễ thăng bậc, được gia phong mĩ tự 2 chữ: Bảo Hựu Hộ Quốc An Dân Diễn Khánh Tuy Lộc Phổ Hóa Hoằng Hưu Phù Vận Cương Chính Hùng Lược Vĩ Tích Phù Hưu Diên Khánh Triệu Tường Tích Dận Hùng Tài Đại Lược Anh Linh Diên Chỉ Thái Ninh Chí Nhân Anh Vũ Thần Mưu Duệ Toán Trung Chính Túy Tinh Thông Minh Đặc Đạt Ôn Nghị Chính Trực Duệ Trí Anh Đoán Tuấn Triết Dũng Lược Hữu Thánh Dực Chính Thánh Văn Thần Vũ Hồng Du Vĩ Liệt Đại Vương. Vậy nên sắc!
Ngày 12 tháng 10 năm  Quang Trung 3 (1790).

Sắc phong 3:

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
 Phiên âm:
Sắc Bản Thổ Chi Thần, nguyên tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Chi Thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh miến niệm thần hưu, khả gia tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Đôn Ngưng Chi Thần, nhưng chuẩn Vĩnh Thuận huyện, An Thái phường y cựu phụng sự. Thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Tự Đức thập niên thập nguyệt sơ tam nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Bản Thổ Chi Thần, nguyên tặng Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Chi Thần, giúp nước che chở dân, tỏ rõ linh ứng. Nay trẫm nối mệnh lớn nghĩ đến những điều tốt đẹp của thần, xứng đáng được gia tặng là Bảo Hộ Quảng Thí Bác Huệ Đôn Ngưng Chi Thần, chuẩn cho phường An Thái, huyện Vĩnh Thuận phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ và che chở cho dân của ta. Kính thay!
Ngày 3 tháng 10 năm Tự Đức 10 (1857).
Thay lời kết:
Đền Đồng Cổ là đền thiêng liêng, thờ vị thần Trống Đồng có công lao với nước. Đền được xây dựng vào thời Lý, đến nay đã được gần 1000 năm. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, qua nhiều thời đại mà đền vẫn sừng sững nguy nga. Trải qua nhiều thời kỳ đều được phong tặng sắc phong, được tôn sùng. Đền mang giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện lòng trung thành và yêu nước của người Việt Nam. Đến nay hàng năm vẫn có rất nhiều nhân dân thập phương đến chiêm bái, hương khói không dứt, thể hiện lòng tri ân và tôn kính đối với vị thần có công với đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1.Đại Việt sử kí Toàn thư; Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb Văn Học, tái bản năm 2017.
2.Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, 14 đạo sắc phong đền Đồng Cổ.

LÊ THÔNG
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I                                                                                           
[1] Đại Việt sử kí Toàn thư. Nxb Văn Học. Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch, trang 154.
spacer

Kho báu trong lăng Thoại Ngọc Hầu: Khắc tên trên bảo vật trấn quốc


Chỉ đến khi kho báu đồ sộ trong lăng mộ ông được khai quật và giải mã, người ta mới hình dung phần nào đời sống của nhân vật lẫy lừng này.

Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829, tên thật là Nguyễn Văn Thoại) là tướng lĩnh thân cận của chúa Nguyễn Ánh (sau này là vua Gia Long triều Nguyễn). Ông được người dân Nam bộ rất mực tôn kính vì có công lớn trong việc lập làng lập ấp, giữ yên và phát triển miền Tây; là người chỉ huy đào kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế, hai con kênh hết sức quan trọng trong việc phát triển giao thương.
Ngay khi Thoại Ngọc Hầu và bà chính thất Châu Thị Vĩnh Tế còn sống, tên ông bà đã được đặt cho núi (Thoại sơn, Vĩnh Tế sơn), tên sông (Thoại hà, Vĩnh Tế hà) và còn được khắc lên Cửu đỉnh - bảo vật trấn quốc của triều Nguyễn đặt trong hoàng thành Huế ngay trước miếu thờ các vua Nguyễn. Sau này, tên ông bà còn tiếp tục được đặt cho các đơn vị hành chính (H.Thoại Sơn, xã Thoại Giang, thôn Thoại Sơn, xã Vĩnh Tế...), tên khu du lịch Hồ ông Thoại, khu dân cư Ngọc Hầu, Châu Đốc, nhiều trường học, đường sá và cây cầu tại 7 tỉnh (An Giang, Kiên Giang, Đà Nẵng, TP.HCM, Gia Lai, Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế). Tổng cộng, có tới 7 loại hình và 40 cơ sở trên toàn quốc mang tên ông và bà.
Kho báu bí mật suốt 180 năm
Lăng Thoại Ngọc Hầu uy nghi tọa lạc tại P.Núi Sam, TP.Châu Đốc, tỉnh An Giang. Khu vực chính có 3 ngôi mộ lớn: mộ ông nằm ở giữa, một bên là phu nhân chính thất Châu Thị Vĩnh Tế ngang bằng với mộ ông, mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt được xây lùi xuống một chút. Đã hơn 180 năm kể từ khi ông qua đời, khói nhang trong lăng mộ chưa bao giờ tắt.
Một điều kỳ lạ là cho đến trước khi phát hiện, trong dân gian hầu như không có những huyền thoại lưu truyền về đồ tùy táng của đức Thoại Ngọc Hầu. Thậm chí những ký ức về cuộc sống gia đình ông cho đến nay cũng không còn dấu vết, đặc biệt là khu vực dinh quan bảo hộ (ông từng giữ chức Thống chế Bảo hộ Cao Miên), nơi sinh sống của gia đình Thoại Ngọc Hầu lúc đương thời cũng chưa xác định được chính xác. Chỉ đến năm 2003, kết quả khảo sát mới cho thấy có dấu hiệu dinh quan bảo hộ cũ hiện nay nằm trong khu vực doanh trại Quân đội nhân dân VN ở Châu Đốc.
Cũng trong hơn 180 năm đó, lăng Thoại Ngọc Hầu đã trải qua nhiều nhiệm kỳ của nhiều ban quản lý và hàng chục lần trùng tu sửa, nhưng tuyệt nhiên đã không có một phát hiện hoặc một ghi chép nào về đồ tùy táng của Thoại Ngọc Hầu. Điều đó chứng tỏ hậu nhân của ông, những người được giao sứ mạng chôn cất các di vật, đã giữ bí mật một cách tuyệt đối khối di sản quý giá này trong lòng đất.
Những mảnh vàng của chiếc mão hổ đầu thu được sau khi khai quật
Khối lượng di vật to lớn, quý giá
Ngày 20.9.2009, trong quá trình tu bổ lăng mộ, khi dọn dẹp mặt bằng để chuẩn bị lát gạch chung quanh, công nhân thuộc Công ty Hà Phúc đã phát hiện một lằn phui sụp xuống. Sự việc được báo cáo cho Ban Quản lý khu di tích Lăng miếu núi Sam và Bảo tàng An Giang. Sau khi khảo sát, ban quản lý và Bảo tàng An Giang nhất trí rằng khả năng có khu vực chôn đồ tùy táng là rất lớn, lập tức xin phép UBND tỉnh và Sở VH-TT-DL An Giang tiến hành khai quật khu vực này.
Sau 4 ngày, cuộc khai quật khẩn cấp đã thành công. Số lượng hiện vật thu được rất lớn: hơn 500 hiện vật và hàng trăm tàn tích đồ gỗ, đồ vải, đồ kim loại... Hiện vật phong phú và đa dạng, gồm nhiều chất liệu: vàng, bạc, đồng, đồng tráng men (pháp lam), sắt, antimony, gỗ, gốm sứ, thủy tinh, đá, ngà, xương, răng, nanh hổ, vỏ ốc...; cổ vật thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19 thuộc nhiều nước: VN, Trung Quốc, Xiêm La (Thái Lan), Chân lạp (Campuchia), Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha ... Với số lượng hiện vật quý giá như trên, có thể nói phát hiện khảo cổ học tại lăng mộ Thoại Ngọc Hầu rất độc đáo và thú vị. Bởi cho đến nay, những phát hiện đã công bố về đồ tùy táng của các quan lại đại thần phong kiến VN, thậm chí của cả vua nữa, chưa từng có nhân vật nào vừa có công lao, tài đức mà còn để lại một khối lượng di vật to lớn, quý giá và phong phú như vậy. Các hiện vật này đã giúp phần nào hình dung về cuộc sống của tầng lớp quan lại cấp cao VN đầu thế kỷ 19 tại khu vực biên giới phía Tây Nam.
Phạm Hữu Công
spacer

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt

Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.

Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.

Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.

Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.


Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán

Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.

Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.

Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.

Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:

* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:

* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:

* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.

(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.

1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1


CHÚ DẪN

1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml

越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.

3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。

#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html

 The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina

5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)

6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.

7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.

8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.

9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).

10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.

11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.

12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).

13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.

14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).

#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.

16 叶榆水

17岱依人

18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.

19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.

20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.

21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!

22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.

23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.

24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).

25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.

#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên

27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.

28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.


* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.

Trần Gia Ninh

spacer
do