Bài khấn để cúng giao thừa trong nhà năm Bính Thân 2016

Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên.Vào chính thời khắc giao thừa vừa tới sau khi cúng ngoài trời. Nhằm cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều tốt lành trong năm mới.

Cúng giao thừa hay còn gọi lễ Trừ Tịch

Theo Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Còn Cao đài Từ điển giải nghĩa trừ tịch thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối năm; tịch: đêm và Giao thừa thì giao: giao tiếp và thừa: tiếp tục.

Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để ” khu trừ ma quỷ”.

Sau khi cúng Giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất. Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.

Ngoài ra để giải thích cho việc tại sao cúng giao thừa ngoài trời, dân gian cũng cho rằng lễ cúng “giao thừa” được tổ chức nhằm đón các thiên binh hay còn gọi là các vị Hành khiển và Phán quan. Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà.

Mâm lễ được sắp bày với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.

Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.

Lễ Trừ tịch được cử hành đúng vào lúc giao thừa (hết giờ Hợi – từ 21 giờ đến 23 giờ – sang giờ Tý – từ 23 giờ đến 1 giờ – mở đầu ngày mồng 01 Tết).

  • Nghi thức cúng giao thừa


Theo phong tục Việt Nam từ cổ xưa, nhà nhà đều cúng lễ ngoài trời và cúng lễ trong nhà.

Lễ cúng giao thừa ngoài trời gồm: ngũ quả, hương, hoa, đèn nến, trầu cau, muối gạo, trà, rượu, quần áo và mũ nón mũ thần linh, mâm lễ mặn với thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, bánh chưng … nếu là phật tử có thể cúng mâm lễ chay. Tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà.

Vào đúng thời điểm giao thừa, người chủ gia đình phải thắp đèn, nến, rót rượu, rót trà, rồi khấn vái trước án.

Văn khấn có thể viết vào giấy để đọc. Sau khi hết 3 tuần hương thì hóa tờ giấy viết văn khấn cùng vàng mã dâng cúng.

  • Văn khấn cúng giao thừa ngoài trời:

văn khấn giao thừa
Cúng giao thừa ngoài trời
spacer

Uẩn khúc mộ 'Gia Định tam hùng'

Ngôi mộ và miếu thờ vô chủ tọa lạc tại ven đường Phạm Ngũ Lão, thuộc KP.3, tổ 16, P.Hiệp Thành, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương được cho là nơi an táng của một trong “Gia Định tam hùng”.

Chính diện mộ Đỗ Hiệp trấn và phu nhân sau khi phục dựng - Ảnh: L.C.T
spacer

VỀ MỘT CHI HỌ LÝ (ĐÌNH BẢNG) Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, THANH HÓA

VỀ MỘT CHI HỌ LÝ (ĐÌNH BẢNG) Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, THANH HÓA

PHẠM THỊ THÙY VINH

Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua và dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long cũng chính là thời kỳ dòng họ Lý ở Đình Bảng chính thức bước lên vũ đài chính trị. Nhà Lý đã có những đóng góp xuất sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nền văn hiến Đại Việt giàu bản sắc văn hóa cũng được bộc lộ rõ nhất từ chính thời đại này. Nhưng sau khi nhà Trần giành Vương triều từ nhà Lý với sự nhường ngôi cho chồng của Lý Chiêu Hoàng, vai trò chính trị của nhà Lý chấm dứt. Dòng họ Lý đã thất tán đi nhiều nơi và có một bộ phận đổi sang họ Nguyễn.
spacer

Bàn về hai chữ “Thiên thư” (天 書) trong bài Nam quốc sơn hà (南 國 山 河)

Lê Văn Quán
Nam quốc sơn hà là bài TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP đầu tiên của nước ta. Nội dung của TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP chủ yếu đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và các dân tộc. Đồng thời, bài Nam quốc sơn hà ra đời cũng là thể hiện hùng khí và sự lớn mạnh của dân tộc ta. Thế mà, hai chữ “thiên thư 天 書” ở trong câu thơ:
“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

截 然 定 分 在 天 書

(Rành rành định phận ở sách trời) (1, tr.181), lại lí giải không ổn. Có ý kiến cho là tác giả bài thơ(*) đã dựa vào tư tưởng “thiên mệnh” (= mệnh trời), trời quyết định mọi sự việc ở đời. Gần đây, trong bài Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, PGS. Bùi Duy Tân đã viết: “Trời ở đây ẩn trên thiên thư… Cả mớ lý luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”,… (2,tr.318).

spacer

BÀI VĂN BIA CỔ TÍCH LINH TỪ BI KÝ Ở NÚI TỬ TRẦM

BÀI VĂN BIA CỔ TÍCH LINH TỪ BI KÝ Ở NÚI TỬ TRẦM (HÀ TÂY) DO NHÀ
SỬ HỌC LÊ TUNG SOẠN

NGUYỄN QUANG HÀ
NGUYỄN QUANG NGỌC
1. Xuất xứ tấm bia và vài nét về tác giả

Tại xóm San, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện còn lưu giữ được tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Bia có chiều cao 1,22m, rộng 1,20m, trong đó trán bia cao 0,24m, chạm hoa văn rồng chầu mặt nguyệt cách điệu, hai diềm bia chạm hoa, dây leo. Bia được dựng trong một am nhỏ có mái che, chữ còn khá rõ nét, viết chân phương, dễ đọc. Bia gồm 22 dòng, mỗi dòng khoảng 50 chữ, tổng cộng hơn 1200 chữ, một bài tựa và một bài minh dài hơn 70 câu (mỗi câu 4 từ). Phần cuối bia là dòng lạc khoản ghi: “Hồng Thuận nhị niên, tuế thứ Canh Ngọ trọng thu, cát nhật, Tiến thận quang lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử giám Tế tửu(1) Tri kinh diên sự thần Lê Tung đẳng phụng sắc soạn”. Nghĩa là: (Ngày tốt, tháng giữa thu [tháng 8] năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 [1510] do Tiến thận Quang Lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn soạn sắc)

Đây là tấm bia mà soạn giả là một nhà sử học nổi tiếng sống cách chúng ta khoảng 500 năm. Nội dung tấm bia cho biết nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI, xung quanh việc Lê Tương Dực (1509 - 1516) lên ngôi. Ngoài ra, nội dung tấm bia còn mô tả về quang cảnh khu di tích núi Trầm thời Lê(2).

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 5

Tư liệu: Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh -Tốn-Tố-Khôi” – Bài 5
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Trí thức thế hệ 2: Vẫn câu hỏi ĐỘC LẬP và CANH TÂN – cái gì trước?
Phan Chu Trinh và phong trào Duy Tân
Ảnh hưởng quyết định của Tân Thư
“Tân Thư” (sách mới) thực ra là những sách có từ lâu bên châu Âu, nhưng lại rất mới với châu Á và Việt Nam. Sách chủ yếu trong tân thư là các tác phẩm của Montesquieu (Mạnh Đức Tư Cưu, 1689-1775) và J. Rousseau (Lư Thoa, 1712-1778); rồi các sách ra đời muộn hơn của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu và một số tác giả Nhật.
spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 4

Tư liệu:  Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 4
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Trí thức nước ta và việc chọn ý thức hệ

Quân Pháp xâm lược Bắc Kì, trận chiếm thành Hải Dương .

Năm 1906 lần đầu tiên trên tiêu đề của một bài báo (ở Pháp) xuất hiện từ mới toanh, trước đó chưa hề có: “trí thức”. Từ này dành cho nhà văn Zola vì hành động cao cả và dũng cảm của ông. Cụ thể, ông đã lên tiếng phản đối, và phản đối tới cùng, một bản án bất công do giới quyền lực áp đặt cho một nghi can là người Do Thái. Trớ trêu, dư luận xã hội – do kỳ thị chủng tộc – đã nhiệt liệt ủng hộ bản án phi nghĩa này. Nhà văn rất ý thức về sự nguy hiểm cho bản thân, nhưng ông trọng công lý và sự thật hơn lợi ích riêng. Sau mấy năm chịu đựng sự đàn áp, Zola đã thắng và trở thành một biểu tượng của trí thức. Thế là, khái niệm trí thức ra đời. Tuy nhiên, dẫu trước năm 1906 kho từ vựng chưa có từ “trí thức”, nhưng đã có sẵn rất nhiều danh từ để chỉ “người có học” (ví dụ, nhà bác học, nhà khoa học, học giả, nhà văn, nghệ sĩ, tiến sĩ…). Dù sao, họ chưa phải là trí thức. Nhưng nếu một người “có học” – ngoài chuyện hành nghề theo chuyên môn – còn vạch ra những bất cập và bất công của xã hội, đề xuất các biện pháp giải quyết (nay gọi là phản biện), ông ta trở thành trí thức (trí tuệ và thức tỉnh). Hoạt động xã hội của trí thức, đều – gián tiếp hay trực tiếp – có tác dụng nâng cao dân trí. Đúng ra, trước 1906 đã có nhiều nhân vật mà phẩm chất cao đẹp không kém Zola. Có điều, thời xưa chưa có từ ngữ thích hợp để gọi họ mà thôi.

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 3

Tư liệu: Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 3
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh


Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi
Yukichi Fukuzawa
Wikipedia đã nêu rất đủ về Nguyễn Trường Tộ  Fukuzawa Yukichi (xin gọi tắt là cụ Nguyễn và cụ Fuku). Để so sánh, ai cũng nhận ra: Cả hai cụ sinh cùng thời, cùng đề xướng cải cách, nhưng một cụ thất bại, cụ kia thành công. Chỉ cần gõ hai cụm từ “nguyễn trường tộ” và “fuku yukichi” ta sẽ được google cung cấp hàng ngàn kết quả, trong đó không thiếu những so sánh cụ thể, chi tiết, để tìm ra nguyên nhân thất bại và thành công.
spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 2

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 2
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh


Bài 2: Nguyễn Trường Tộ trao lại những gì?
Số phận các bản điều trần

Nói chung, chúng không được thực hiện vì không đủ cả thời gian lẫn điều kiện. Nhưng bao trùm lên tất cả là vua Tự Đức không thể dứt bỏ ý thức hệ Nho Giáo, mặc dù đến lúc ấy đã trở thành phản động khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đua nhau tìm kiếm thị trường và thuộc địa.
Nguyễn Trường Tộ

spacer

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 1

Tư liệu : Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ  “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”- Bài 1.
Nguồn bài viết: nguyencuulichsu.com - Tác giả: Nguyễn Ngọc Lanh

Ba thế hệ trí thức với hoài bão nâng cao dân trí:  Cụ Nguyễn Trường Tộ và “bộ ngũ” sống cách nhau tới hai thế hệ. Trong khoảng thời gian 50 hoặc 60 năm ấy, chen vào giữa họ, là thế hệ các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Không ai thật sự có quyền lực trong tay. Các cụ được trọng vọng là do những gì tích lũy trong óc. Có uy tín là nhờ thái độ đối với xã hội, nhân quần. Sản phẩm của mỗi người đều chỉ là những suy nghĩ, do tự mình thể hiện trên giấy – mà không thể nhờ vả làm giúp, hoặc sai bảo ai làm thay…

Tất cả các vị này đều sinh ra từ thế kỷ 19 – cách nay hàng trăm năm, nhưng các vị đều là trí thức đúng nghĩa – mặc dù đầu thế kỷ 20 mới có khái niệm “trí thức“ để có thể phân loại “người có học” khác trí thức ở chỗ nào. Đó là những người vừa “có học” lại vừa có tư duy phản biện xã hội. Chính do tư duy phản biện, họ bị chế độ thực dân và phong kiến – nói chung là những chế độ độc tài – kỳ thị, cảnh giác, kể cả lên án, thậm chí bị lên án từ nhiều phía. Nhưng tất cả đều bất khuất và sử dụng phương thức phù hợp để thể hiện lòng yêu nước và thực hiện hoài bão nâng cao dân trí. Thời nay, con cháu Phan Chu Trinh và “bộ ngũ” – thế hệ thữ năm – vẫn tiếp tục sự nghiệp cha ông.


spacer
do