NHO GIÁO VIỆT NAM VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

Chương 1
KHÁI QUÁT VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRIẾT HỌC NHO GIA

1.1      Khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử  (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước.

Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng  - vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương -  ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.

            Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì trệ.


Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là Nhân (đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này. Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung cơ bản sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử nói: (đó là người biết) yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”)(1).
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân)(2). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân)(3). Như vậy, trung thứ tức là từ lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không muốn.
- Đối với bản thân mình,  người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân)(4). Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi. Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ). Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn.
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức  trong quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung, ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước đây.
1.2. Mặt tích cực và hạn chế của tư tưởng Nho giáo
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự  ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần củng cố lòng tin giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện đầu tiên trong quan hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo thì đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc)(5). Riêng đối với người cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo đức.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và  xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tư tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải có những phẩm chất đạo đức cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Chương II
CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VIỆT NAM

Bản chất của một sự vật được bộc lộ ra phụ thuộc vào sự tiếp xúc của nó với môi trường xung quanh. Cũng như vậy, đặc trưng của Nho giáo ở Việt Nam được biểu hiện ra phụ thuộc vào các phương diện khảo sát khác nhau, mà từ mỗi một phương diện đó lại có thể đi tới những nhận thức khác nhau. Bài viết tập trung lựa chọn một số phương diện dễ thấy để tìm hiểu, đó là vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam, là chiều hướng và động lực vận động của Nho giáo Việt Nam và phong cách tư duy do sự hoạt động đó đưa lại.

2.1 Vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến, độc lập, tự chủ.

Sau khi giành được độc lập dân tộc ở đầu thế kỷ X, Ngô Quyền đã xoá bỏ chế độ quận huyện của nhà Hán và xây dựng nên một chính thể độc lập, tự chủ. Nhưng, con người làm nên lịch sử Việt Nam lúc đó là dựa trên di sản của thời kỳ Bắc thuộc để lại, gồm cơ cấu xã hội, con người, học thuyết, tín ngưỡng, trong đó có Nho giáo.

Dù các triều đình Việt Nam đã xem xét và lựa chọn, kế thừa và cải tạo lý luận của Nho giáo cho phù hợp với cuộc sống của mình và thải loại những gì không phù hợp với mình, nhưng những nguyên lý cơ bản của nó thể hiện nên nội dung tư tưởng của chế độ phong kiến phương Đông vẫn được bảo lưu và thực hiện. Các nguyên lý như “mệnh trời”, “chính danh”, “tam cương, ngũ thường”, “trung hiếu lễ nghĩa”, v.v. của Nho giáo Trung Quốc đã trở thành nền tảng tư tưởng cho các triều đình Việt Nam tổ chức nên hệ thống cai trị, quy định nên các sinh hoạt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán, v.v. mang sắc thái Việt Nam. Sau một thời gian kế thừa và vận dụng Nho giáo, các triều đình phong kiến Việt Nam đã cải biến mảnh đất này từ thân phận nô lệ và phụ thuộc vào đế quốc Hán trở thành một xã hội phong kiến độc lập, có nhiều phương diện ngang hàng với nước Hán.

Sự kết hợp giữa giai cấp phong kiến thống trị của Việt Nam và Nho giáo không những đã cải biến chế độ chính trị - xã hội còn nhiều yếu tố đơn sơ, chất phác của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, không những đã xóa bỏ những tàn tích nô lệ và phụ thuộc của thời kỳ Bắc thuộc, biến Việt Nam thành một xã hội phong kiến độc lập, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội đó nhanh chóng đi đến chỗ tập quyền và thống nhất. Song, loạn 12 sứ quân ở đầu thế kỷ X, hiện tượng nội bộ hai triều Đinh và Tiền Lê luôn diễn ra cảnh giết chóc lẫn nhau để chiếm đoạt ngôi vua đã khiến đất nước vừa mới độc lập lại có nguy cơ mất nước. Tình hình đó đòi hỏi phải có một chính thể quân chủ tập trung, thống nhất thì mới khắc phục được. Nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu này. Nho giáo với các lý thuyết như vua là do mệnh trời sắp đặt, người làm vua phải có đức, vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, bề tôi phải trung với vua… đã giúp nhà Lý xác lập và củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền, đã tạo cho họ sức mạnh để ổn định được bên trong và đề kháng được bên ngoài. Các triều đại Trần, Lê Sơ đã tiếp tục con đường thống nhất và tập quyền đó của triều Lý, tiếp tục khai thác và sử dụng các yếu tố tập quyền và thống nhất của Nho giáo để xây dựng triều đại. Như vậy, sự tác động của Nho giáo đã làm cho xu thế vận động của xã hội từ phân tán đến tập trung quyền lực vào một triều đình ở Việt Nam sớm trở thành hiện thực.

Nho giáo không những đã có công trong việc dựng nước Việt Nam về mặt chế độ, mà còn cung cấp kiến thức cho các nhà Nho yêu nước đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho quyền tự chủ của quốc gia, cho sự ngang hàng với Trung Quốc phong kiến. Đúng là Nho giáo không dạy người Việt Nam yêu nước như có người đã quan niệm, nhưng nhiều mệnh đề, nhiều khái niệm của Nho giáo dùng trong hệ thống thiết lập và củng cố chế độ phong kiến, khi được cấu trúc lại trên lập trường của dân tộc và nhân dân, lập trường yêu nước Việt Nam, lại tỏ ra có sức mạnh để chống trả kẻ thù dân tộc. “Thiên mệnh” (mệnh trời) của sách “Thượng thư”, “nhân” của Khổng Tử, “nhân nghĩa” của Mạnh Tử, “đại trượng phu” của Mạnh Tử, “thời” và “tuỳ thời” của “Kinh Dịch”, “hoà” của “Tả truyện”, v.v. đã đi vào tác phẩm của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,... và trở thành công cụ tinh thần đắc lực, chiến đấu cho độc lập, tự do. Xét về mặt này, Nho giáo cũng có tác dụng tích cực đối với các công cuộc cứu nước của dân tộc Việt Nam.

Đi liền với tác dụng về mặt chính trị là tác dụng về mặt văn hoá của Nho giáo. Những yếu tố về văn hoá trong “Ngũ kinh” và “Tứ thư” đã là cơ sở tư tưởng và học vấn để các triều đình Việt Nam lựa chọn người tài qua các kỳ thi Nho giáo. Chúng được dùng làm tài liệu để giáo dục con người, nhằm không những làm cho họ trở thành người có học vấn, tức là Nho sĩ, mà còn bồi dưỡng nên những con người phi thường, đó là những đấng trượng phu, những người quân tử. Một khi những danh hiệu đó đạt được thì quả trở thành nhân, bởi chính họ tác động trở lại, làm cho xã hội đó được vững vàng hơn, bền chặt hơn.

“Lễ”, một tư tưởng quan trọng của Nho giáo, có vai trò đặc biệt đối với xã hội. Khổng Tử nói: “Vi quốc dĩ lễ” (Làm việc nước thì dựa vào lễ - Luận ngữ). Tuân Tử nói: “Lễ giả, cường quốc chi bản dã” (Lễ là gốc làm cho nước mạnh - Tuân Tử). Nội dung của khái niệm lễ này rất rộng, nhưng xét về mặt văn hoá, nó đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới phong tục tập quán Việt Nam. Vào những năm đầu công nguyên, tục lệ của Việt Nam còn khác nhiều so với tục lệ Hán. “Truyện Mã Viện” trong “Hậu Hán thư” ghi rằng, Mã Viện tâu với Hán đế: “Luật Việt khác với luật Hán, cần phải bác bỏ hơn 10 việc” (luật đây có nghĩa là tục lệ, phong tục - N.T.T.). Nhưng, bởi tư tưởng của kẻ thống trị là tư tưởng thống trị xã hội, nên chẳng bao lâu sau, nhiều tập tục cổ của người Việt bị mất đi và thay thế vào đó là tục lệ của Hán có trong Nho giáo.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng, nhiều phong tục tập quán của Việt Nam thời Trung đại, từ tế lễ, cưới xin, ma chay, đến hội hè, tuần tiết,… đều mang dấu ấn của những điều đã ghi trong sách “Lễ ký” của Nho giáo. Có thể nói, tục lệ Hán truyền vào đã làm phong phú thêm cho tục lệ Việt. Tất nhiên, những tục lệ gắn với lối sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội Việt, gắn với nghề trồng lúa nước bản địa thì không thay đổi.

Tuy ra đời ở Trung Quốc, nhưng Nho giáo đã tồn tại phổ biến ở Việt Nam, vì chế độ xã hội Việt Nam thời Trung đại giống như chế độ xã hội Trung Quốc, đều là xã hội phong kiến. Vốn là công cụ thống trị của giai cấp phong kiến ngoài nước và trong nước đối với dân tộc Việt Nam, nhưng Nho giáo cũng có sự phục vụ nhất định cho sự tiến bộ của đất nước Việt Nam. Thể hiện ở chỗ, giai cấp phong kiến Việt Nam lúc còn sứ mệnh lịch sử đã biết vận dụng và cải tạo những yếu tố tích cực của Nho giáo, dùng chúng vào việc làm lợi cho đất nước mình, cho nhân dân mình. Quá trình đó diễn ra dần dần, từng bước một, đến một độ nhất định, đã đưa Việt Nam từ chỗ còn tương đối lạc hậu, trở thành một nước thi thư, một xã hội có văn hiến, ngang hàng với các nước phương Đông khác.

Song, vai trò tích cực của Nho giáo ở Việt Nam là có giới hạn, chỉ kéo dài khoảng 5 thế kỷ. Nếu cho một đồ thị về sự phát triển của Nho giáo Việt Nam thì đó là một đường cong chúc xuống với điểm bắt đầu là triều Lý và đi tới đỉnh cao là thời Lê Thánh Tông của triều Lê, sau đó là thời kỳ Nho giáo rơi vào khủng hoảng cho đến tận cuối triều Nguyễn. Khi Lê Thánh Tông tự hào rằng, quan lại triều đình đều từ nhà Nho mà ra và rằng, triều đại nhà Lê sẽ được dài lâu như triều đại nhà Châu bên Trung Quốc: “Hưởng niềm vui thịnh trị 800 năm như nhà Châu” (Bát bách Cơ Châu lạc trị bình), thì đó cũng là lúc báo hiệu sự đi xuống của triều Lê và của cả Nho giáo Việt Nam. Ông mất không bao lâu thì Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, khiến cho tuổi thọ của triều Lê thuộc vào loại ngắn ở Việt Nam, thực chất chỉ có 100 năm (1428 - 1527). Nguyên tắc trung với vua của Nho giáo không còn hiệu lực. Hiện tượng đó không những với triều Lê, mà còn đối với các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó. Suốt 3 thế kỷ - XVI, XVII, XVIII, nhiều nhà Nho có tâm huyết với đất nước đã cố tìm trong Nho giáo một ánh sáng của sự trị bình xã hội, nhưng đều bất lực.

Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên làm vua, lập ra triều Nguyễn. Gia Long (miếu hiệu của Nguyễn Ánh) và các vị vua Nguyễn kế tiếp đều ra sức đề cao Nho giáo, phục hồi địa vị độc tôn của Nho giáo. Nhưng, Nho giáo chính thống triều Nguyễn do đi vào chỗ khắc nghiệt, giáo điều nên đã ngăn chặn sự nảy nở của các mầm mống tư tưởng thức thời và yêu nước, đã từ chối khuynh hướng cải cách xã hội, khiến đất nước đánh mất cơ hội mới để tiến kịp với thời đại.

Tất nhiên, Nho giáo là một học thuyết, một tư tưởng và do đó, sự vận dụng nó phụ thuộc vào người sử dụng. Nhưng, khi người sử dụng quá tin vào hiệu lực của nó mà quên mất rằng hoàn cảnh đã thay đổi thì học thuyết cũng phải thay đổi theo, thì chính học thuyết đó tác động trở lại làm cho con người mê muội, làm theo những điều đã lỗi thời. Bởi vậy, có thể nói, cả triều Nguyễn và Nho giáo đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX.

2.2. Chiều hướng và động lực phát triển của Nho giáo Việt Nam.

Nho giáo Việt Nam càng về sau càng có nội dung phong phú, càng có sự hoạt động nhiều mặt và càng đi vào nền nếp. Điều đó hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, cũng không phải là kết quả của một giai đoạn, mà là kết quả của cả một quá trình và do các động lực bên trong và bên ngoài thúc đẩy.

Yêu cầu của hoạt động thực tiễn chính trị - xã hội trong nước là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo Việt Nam. Yêu cầu này xuất phát từ xu thế đi lên tập quyền và thống nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong ba học thuyết của phương Đông là Nho, Phật, Lão, chỉ có Nho giáo với nội dung và tính chất của nó là có thể đáp ứng được xu thế này. Các công việc của triều đình, như quản lý thần dân, sắp xếp hệ thống quan lại, tổ chức thi cử để chọn người tài, ấn định nội dung để giáo dục con người, xem xét việc tế lễ, cầu đảo thần thánh, v.v. đều phải dựa vào Nho giáo. Dù Nho giáo gốc đã có sẵn những điều trên, nhưng đi vào sự vận dụng vẫn có điều cần phải thêm bớt, vẫn có sự phải bổ sung, vẫn có chỗ phải thuyết minh, nghĩa là vẫn còn có đất cho sự phát huy. Các triều đình phong kiến Việt Nam và các nhà tư tưởng của nó đã làm được điều đó. Như việc giữ nước và cứu nước, cho dù các triều đình phong kiến Việt Nam có sự ý thức rõ ràng về tính độc lập, tự chủ của mình, nhưng vẫn phải có sự kết hợp với Nho giáo. Nho giáo cho họ một số yếu tố nào đó để làm nền, cho họ một số phương pháp nào đó để làm phương hướng của tư duy, tạo thuận lợi cho tư tưởng yêu nước xuất hiện. Bằng các hoạt động như thế, tư tưởng Nho giáo Việt Nam từng bước trưởng thành lên.

Hoạt động đối ngoại là cơ hội để người trong nước hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho giáo Trung Quốc và từ đó, tạo nên cú hích bên ngoài, làm nên sự tăng trưởng của Nho giáo bên trong. Bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc là bang giao thần thuộc, Việt Nam là thuộc quốc, Trung Quốc là thiên triều. Cứ hàng năm hoặc vài năm, tuỳ theo tình hình mỗi lúc mà Việt Nam phải có đoàn tiến cống Trung Quốc. Và cũng với thời gian tương tự, Trung Quốc có sứ giả sang Việt Nam để thừa nhận và phong vương cho vua mới lên ngôi ở Việt Nam, hoặc yêu sách một số việc cần kíp khác. Sự đi lại trên cũng là dịp để hai bên trao đổi về văn hoá, tư tưởng, là dịp để Việt Nam hiểu thêm về Nho giáo Trung Quốc và vua Trung Quốc ban phát tài liệu kinh điển Nho giáo cho Việt Nam. Nho giáo Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh qua con đường chính thức đó mà có mặt ở Việt Nam, mà gây nên sự học tập không ngừng của Việt Nam đối với Nho giáo Trung Quốc. Kết quả là, Nho giáo Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhất định về số lượng kiến thức, về những điều mới mẻ trong quá trình phát triển của Nho giáo Trung Quốc. Nhưng, đây mới chỉ là sự tăng trưởng về số lượng, chứ chưa gây được sự biến đổi về chất lượng của Nho giáo Việt Nam, do điều kiện và thời gian chưa đủ để thực hiện sự chuyển hoá.

Sự tiếp xúc của nhân dân hai nước ở vùng biên giới Việt - Trung là điều kiện để người trong nước biết được thông tin cập nhật về hoạt động Nho giáo ở Trung Quốc. Điều đó đã có ảnh hưởng ít nhiều đến chiều hướng vận động của Nho giáo Việt Nam. Song, ảnh hưởng đó là hạn chế, vì sự chậm chạp của sự truyền đạt thông tin thời phong kiến, vì sự cấm đoán lan truyền tin tức khác với cái hiện có của triều đình. Tuy vậy, những thông tin cập nhật từ bên ngoài đã gây nên sự thích thú tìm hiểu của một số Nho sĩ Việt Nam. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được tiền đề để tiếp nhận những thành tựu trong các bước phát triển của Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam khi có điều kiện, giúp cho sự tiếp nhận đó được dễ dàng.

Dù vậy, tất cả các động lực và hoàn cảnh trên vẫn không đủ điều kiện để tạo nên những bước nhảy của Nho giáo Việt Nam. Việc vận dụng Nho giáo để giải quyết các công việc đối nội và đối ngoại của các triều đình Việt Nam chỉ là việc giải quyết các tình thế xã hội trên cơ sở của Nho giáo vốn có; việc chấp nhận các trào lưu Nho giáo mới của Trung Quốc đưa vào chỉ là sự truyền bá, chứ chưa phải là việc đổi mới của Nho giáo Việt Nam. Để đổi mới chất lượng Nho giáo Việt Nam thì phải cần đến sự vận động tự thân của Nho giáo Việt Nam, cần có sự phản tỉnh của Nho sĩ trong nước đối với Nho giáo của mình, xem cái gì còn thích hợp cần duy trì, cái gì đã lỗi thời cần vứt bỏ. Nhưng, việc ấy chỉ có Hồ Quý Ly là thực hiện được. Các Nho sĩ khác đều không dám!

Cải cách của Hồ Quý Ly ở cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV, bao gồm các cải cách chính trị, kinh tế và văn hoá tư tưởng, là hiện tượng đột xuất của lịch sử Việt Nam. Xét về cải cách Nho phong, bản thân việc làm này mang tính chất cách mạng. Ở đó, ông chủ trương Việt ngữ hoá Nho giáo, dịch các sách kinh điển của nhà Nho ra chữ Nôm, như dịch thiên “Vô dật” của Kinh Thư, dịch Kinh Thi để cho nhiều người Việt có thể hiểu được; ông phê phán lối học kinh viện, xa rời thực tế của Đường Nho, Tống Nho. Chủ trương đó nếu được thực hiện đến cùng thì chắc sẽ tạo ra nhiều điểm mới cho Nho giáo Việt Nam. Song, quân Minh xâm lược Việt Nam đã cắt ngang việc làm đó của ông, chặn đứng sự cải cách của ông. Suốt năm trăm năm sau Hồ Quý Ly, không ai nói tới sự cải cách nữa. Nho giáo chính thống ở đất nước này đã không thể thoát ra khỏi dinh lũy của chủ nghĩa bảo thủ.

Trên một phương diện khác, Nho giáo Việt Nam thiếu sự xuất hiện các trường phái học thuật. Chính sự lệ thuộc vào phương Bắc của triều đình và sự an phận của các sĩ phu đã đưa đến tình trạng đó. Vì thiếu các học phái khác nhau, nên Nho giáo Việt Nam vận động trong sự đơn điệu và một chiều, chứ không được phong phú và đa dạng như Nho giáo Trung Quốc. Ở Trung Quốc, chỉ riêng giai đoạn Tống Nho đã có bốn học phái khác nhau: Liêm học của Châu Đôn Di, Quan học của Trương Tải, Lạc học của Trình Hạo, Trình Di và Mân học của Chu Hy. Cùng là Nho, song giữa họ có sự lý giải khác nhau, quan niệm khác nhau, khiến người trong cuộc có điều kiện rộng rãi để lựa chọn, để phát huy.

Để tồn tại, mỗi sự vật trong cùng một lúc diễn ra nhiều loại vận động và ở đó, vận động bên trong mới là cái có ý nghĩa quyết định, là điều kiện để không ngừng thải loại và đổi mới bản thân, để tiến lên không ngừng. Nho giáo Việt Nam thiếu sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh bản thân, nên trì trệ là điều khó tránh khỏi.

2.3. phong cách tư duy của Nho giáo Việt Nam.

Xét sự nhận thức và hoạt động tư tưởng của các nhà Nho Việt Nam, chúng ta thấy không có sự nhầm lẫn với nhà Nho của các quốc gia khác, bởi ở họ đã hình thành cốt cách riêng, phong cách riêng. Đại thể có những đặc điểm sau:

2.3.1 Hướng tới cái thực tế, công lợi, xa lánh cái siêu hình, cao xa.

Đặc điểm này thể hiện trước tiên là ở mục đích học tập. Đa số nhà Nho Việt Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi, thi đỗ thì ra làm quan, làm quan để được giàu sang, sung sướng. Hoàn thành nhiệm vụ đó thì xem như việc học tập đã kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học để tham gia vào tranh luận những vấn đề nổi lên của khu vực, học để làm việc cho đời, hoặc để làm cho văn hoá nước nhà ngày một tăng tiến. Ngoài học tập, thái độ của Nho sĩ đối với học thuật cũng là điều đáng chú ý. Khách quan mà nói, có một số Nho sĩ quan tâm đến học thuật, nhưng thường là quan tâm đến vấn đề chính trị và đạo đức, ít bàn đến vấn đề siêu hình, một lĩnh vực cao của tư duy, ở đó ẩn chứa những khả năng nhận thức sâu sắc và hành động sáng tạo. Thậm chí, họ còn biến cái siêu hình thành cái thực tế, thực dụng. Thí dụ, về khái niệm “thiên” trong mối quan hệ thiên - địa - nhân, họ không xét khái niệm “thiên” với tư cách là một thực thể tự nhiên có bản chất như thế nào, hoặc không xét đó là một thực thể tinh thần, thực thể siêu nhiên có vai trò đối với vũ trụ như thế nào, mà chỉ xét ở góc độ làm lợi gì cho con người, như cho “thiên” vận hành có thời, con người phải biết “thiên thời” để cấy trồng cho kết quả, hay xét ở góc độ tôn giáo, tín ngưỡng, xem con người phải đối với ông trời như thế nào để có lợi cho mình, từ đó chủ trương phải “kính thiên”, “thuận thiên”, “phụng thiên”, “thừa thiên”, v.v.. Một thí dụ khác, Kinh Dịch nêu lên bản nguyên của thế giới là: “Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp”, với Nho sĩ Việt Nam, sự chú ý không phải là xem “thái cực”, “lưỡng nghi”, “tứ tượng” là gì, mà là thích thú ở hai mệnh đề cuối “bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp” (bát quát xác định tốt xấu, tốt xấu sinh ra nghiệp lớn). Sự chú ý của họ là ở cái gì có thể đem lại lợi ích trực tiếp.

Vì học tập và tư duy như thế nên họ ít có cống hiến to lớn. Hàng ngàn, hàng vạn cử nhân và tiến sĩ đậu đạt, nhưng không mấy người làm được cho dân tộc và đất nước những công trình đáng ghi nhớ, những sự nghiệp vẻ vang. Tất nhiên, Nho giáo Việt Nam cũng có các nhà văn hoá lớn, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, nhưng đó là thuộc loại hiếm.

2.3.2 Thói quen thích đơn giản và ngắn gọn.

Một số nhà Nho uyên thâm của Việt Nam khi đứng trước kho tàng đồ sộ và uyên áo của Nho giáo Trung Quốc thường có ý thức từ trong kho tàng đó tóm lược lấy những điều cốt yếu, biên soạn lại thành những tài liệu đơn giản và ngắn gọn để dạy học trò cho dễ. Chẳng hạn, ở Trung Quốc có những bộ sách biên soạn đầy đủ về một loại vấn đề nào đó, như “Tứ thư tập chú” của Chu Hy, “Tứ thư đại toàn” của Tống, Nguyên, Minh, Thanh Nho, sang Việt Nam chỉ còn là “Thuyết ước” (tóm lược học thuyết) và “Ước giải” (giải thích tóm tắt); hoặc như cuốn “Tính lý đại toàn” của Hồ Quảng thời Minh, sang Việt Nam chỉ còn “Tiết yếu”. Việc này không phải chỉ xảy ra ở một triều đại, mà còn là hiện tượng chung của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Nếu ở triều Trần có “Tứ thư thuyết ước” của Chu Văn An, thì ở triều Lê - Trịnh có “Tứ thư ước giải” của Lê Quý Đôn, triều Nguyễn có “Tứ thư trích giảng” của Nguyễn Văn Siêu; nếu ở triều Lê - Trịnh có cuốn “Tính lý tiết yếu” của Bùi Huy Bích, thì ở triều Nguyễn cuốn đó vẫn còn được xem là cuốn sách giáo khoa mẫu mực. Việc này cũng không chỉ diễn ra trên cả phương diện học tập, thi cử, mà còn diễn ra trên cả phương diện hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động chính trị - xã hội. Khi quân Tống xâm lược Việt Nam ở cuối thế kỷ XI, quyết tâm chiến đấu của quân dân nhà Lý rất cao, đấy là nguồn gốc của thắng lợi. Song, ý chí quyết tâm đó chỉ được thể hiện trong mấy câu của bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư được xem là của Lý Thường Kiệt. Mấy câu “Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Núi sông nước Nam thì vua nước Nam ngự trị. Số phận rõ ràng đã được ghi ở sách trời. Vì cớ gì bọn giặc đến xâm phạm. Chúng bay xem đấy rồi sẽ chuốc lấy thất bại), về tinh thần quyết chiến, quyết thắng thì không cần phải bàn cãi, nhưng về phần luận cứ, chỉ dùng bảy chữ “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” thì vẫn còn một cái gì đó chưa đủ. Đơn giản trong suy nghĩ và việc làm lâu dần đã trở thành thói quen của các nhà Nho Việt Nam.

Đơn giản và ngắn gọn có ưu điểm là dễ nhớ, dễ truyền đạt và dễ tiếp thụ. Nhưng, trong lĩnh vực học thuật, thói quen đơn giản và ngắn gọn lại trở thành điểm hạn chế. Vì đã là đơn giản và ngắn gọn thì phải bỏ bớt rất nhiều điều của học thuyết, làm mất rất nhiều điểm có khả năng gợi mở của học thuyết, giản đơn hoá nội dung phong phú và súc tích của học thuyết. Đấy là chưa nói đến việc tóm lược và tiết yếu có khi bỏ mất nội dung cốt yếu mà chỉ khai thác nội dung thứ yếu. Người truyền đạt hài lòng với đơn giản và ngắn gọn, người được truyền đạt cũng hài lòng với cách làm đó thì mọi lối tư duy, mọi đường sáng tạo đều bị thu hẹp lại.

2.3.3 Lối suy nghĩ chiết trung và dung hợp.

Nho Việt Nam không phải là thuần Nho, Nho Việt Nam đã pha trộn với tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Điều này có thể thấy được qua các thành tố cấu tạo nên tư tưởng của các nhà Nho dân tộc trong lịch sử. Ở đó, chúng ta thấy vừa có yếu tố của Nho, vừa có yếu tố của Phật, vừa có yếu tố của Lão. Điều này còn thấy trong các quan niệm của nhà Nho. Trịnh Huệ, trạng nguyên Nho học ở thời Lê Cảnh Hưng, đã cho rằng, “Chỉ ư chí thiện” (dừng lại ở điều chí thiện) của cuốn “Đại học” cũng là điều thiện của sách Phật, “trung hiếu” của Nho cũng giống như “Tứ ân” của Phật (tác phẩm “Tam giáo nhất nguyên thuyết” của Trịnh Huệ). Ngô Thì Sĩ cho “từ bi” của Phật, “thanh tịnh” của Lão cũng như “nhân nghĩa trung chính” của Nho (bài văn bia ghi việc sửa lại đền Tam giáo của Ngô Thì Sĩ). Phan Huy Ích cho “không hư tịch diệt” của Phật không khác gì với “thành ý” của Nho (bài tựa quyển “Trúc Lâm đại chân viên giác thanh” của Phan Huy Ích). Ở Trung Quốc và ở các nước Đông Á khác cũng có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo nhất thể”, nhưng không mang tính chất quán triệt trong lịch sử như ở Việt Nam. Ở Trung Quốc có lúc còn bài Phật, như việc làm của Thái Vũ Đế thời Bắc Nguỵ, Vũ Đế thời Bắc Châu, Vũ Tông thời Đường, v.v.. Nhưng, “Pháp nạn” này ở Việt Nam không có.

Đi đến chủ trương “tam giáo đồng nguyên” là một hiện tượng lạ, đã gây ra một số giải thích khác nhau. Có người cho đó là do Việt Nam có truyền thống “khoan dung tôn giáo”, có người cho đó là một việc làm để có sự “đối trọng” với Nho giáo. Nhưng thực ra, đó chỉ là do sự hạn chế trong thế giới quan của Nho. Nho chỉ nói tới chính trị, đạo đức, mà không nói tới các vấn đề sống chết, hoạ phúc, không nói tới thế giới tâm linh, không nói tới sự thanh thản của con người trong cuộc sống nghẹt thở của xã hội phong kiến và do đó, Nho cần được Phật giáo và Lão giáo bổ sung.

Nêu lên “tam giáo đồng nguyên” và chấp nhận chủ trương “tam giáo đồng nguyên”, về thực chất, là thái độ chiết trung, dung hợp. Thái độ và cách làm này tuy làm cho thế giới quan của nhà Nho được hoàn chỉnh, có được cơ sở để ứng phó với mọi tình hình của cuộc sống, nhưng mặt khác, nó cũng tạo nên một thế giới quan khép kín, khó tiếp cận với các trào lưu tư tưởng tiến bộ khác. Lịch sử cho thấy, ở thời cận đại, rất nhiều nhà Nho Việt Nam lúng túng và phản đối trước xu thế lan truyền của tư tưởng dân chủ và khoa học cận đại phương Tây. Trong nhiều nguyên nhân, theo chúng tôi, có nguyên nhân của tư tưởng “tam giáo đồng nguyên”.

2.3.4 Tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc.

Trong con mắt của các nhà Nho Việt Nam, thánh hiền đạo Nho là các bậc tài ba, sáng suốt, đủ để làm mẫu mực cho muôn đời. Nhận thức đó khiến văn chương và lập luận của họ thường mào đầu bằng các chữ: “Tử viết” (Đức Khổng Tử nói), “Thi viết” (Kinh Thi nói), “Thư viết” (Kinh Thư nói), v.v.. Họ không biết đến hiện tượng Nho giáo đã từng bị Đạo gia, Mặc gia và nhất là các nhà Pháp gia phê phán, càng không thể biết được rằng, lý thuyết của Nho chẳng qua là một loại sản phẩm tinh thần của xã hội cổ đại, là giải pháp đối với xã hội đó, bản thân nó có những điều không còn phù hợp với các xã hội sau. Vì vậy, các nhà Nho Việt Nam thường lấy những lời nói của thánh hiền Nho, lấy các lời lẽ trong những tác phẩm của kinh điển Nho gia làm lẽ phải cho muôn đời. Nặng nhất về vấn đề này là các sử gia phong kiến. Với những người này, các triều đình, các sự kiện chính trị, các nhân vật kiệt xuất, các biến thiên xã hội,… nếu diễn ra theo đúng lý thuyết của Nho thì tốt đẹp và đáng ca ngợi, còn ngược lại thì đáng lên án, đáng phê phán. Cách thức tư duy và nhìn nhận trên tác động vào xã hội và con người, lâu ngày thành thói quen giáo điều, máy móc và xơ cứng trước các sự biến của cuộc sống.

Dựa vào Nho giáo, mục đích của các triều đình phong kiến Việt Nam và các nhà tư tưởng của họ là nhằm ổn định nội bộ triều chính, xác lập trật tự xã hội, cố kết quân dân, làm cho đất nước cường thịnh,… Nhưng, trong thực tế, các triều đại luôn đổi thay, nhân tâm luôn ly tán, xã hội luôn rối loạn. Đó là điều không hay, nhưng đối với đầu óc tỉnh táo thì đó có thể là những cơ hội để rút ra những nhận thức mới, kết luận mới, bổ sung cho sự phát triển của học thuyết. Song, điều ấy đã không xảy ra, vì người ta quá lệ thuộc vào tín điều đã có.

Bảng so sánh Nho giáo Việt Nam và Trung Quốc
Nho giáo Việt Nam
Nho giáo Trung Quốc
1. Quan hệ xã hội
Ruộng đồng – làng xã
Thành thị – thương mại
Nông dân + Nho sĩ
Sĩ – quan – thương
2. Lôgic xã hội
Chiều ngang phối hợp tiểu gia đình và hàng xóm
Chiều dọc dựa vào các đại gia đình (dòng họ) phụ hệ
3. Giá trị xã hội
Nhân (đạo) + Nghĩa
Hiếu + Trung
4. Nhân vật điển hình
Mạnh Tử
Tuân Tử
5. Mô hình
Thánh đạo
Vương đạo
6. Đề tài văn học
Thi phú ca tụng thiên nhiên
Văn học + kinh học


Tồn tại hàng nghìn năm trên lãnh thổ Việt Nam, Nho giáo đã tác động sâu sắc đến xã hội và con người Việt Nam. Nó đã trở thành công cụ tinh thần của giai cấp thống trị dùng để xây dựng chế độ phong kiến và thúc đẩy sự phát triển của chế độ đó. Nó đã được giai cấp phong kiến Việt Nam lúc đang lên cải tạo và vận dụng thành công vào việc xử lý một số công việc nội trị bên trong và kháng chiến chống sự xâm lược bên ngoài. Nhưng, sự phát triển của Nho giáo Việt Nam là có hạn. Nó chỉ đạt đến mức độ tầm tầm, vừa phải, chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều. Nhiều nhà nghiên cứu cận hiện đại Việt Nam đã phải bất bình và phê phán điều đó. Nhưng, đó là kết quả của hàng loạt nguyên nhân chi phối.


Chương 3
NHO GIÁO VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1 Một số vấn đề về Nho giáo trong tình hình hiện nay:
          Gần đây, nhiều vấn đề tranh luận về Nho giáo lại tiếp tục được nêu lên và mở rộng là: Vì sao có sự thất bại của các nước theo Nho giáo trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc phương Tây ? Đánh giá như thế nào về mặt mạnh, mặt yếu của văn minh Nho giáo phương Đông và văn minh kỹ thuật ở phương Tây ? Nho giáo đã hết thời rồi hay còn sống mãi ? Những gì cần gạt bỏ, những gì cần giữ lại và phát huy từ di sản của Nho giáo ?  Phải chăng là Việt Nam đã có một thời kỳ quá coi nhẹ vai trò tích cực của Nho giáo và gạt bỏ đi nhiều nhân tố tốt đẹp có thể góp phần củng cố cuộc sống gia đình, hoàn thiện các quan hệ xã hội, phát huy thêm sức mạnh của cộng đồng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và tiến tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai….
          Vấn đề đặt ra ở đây là cần nhận thức lại một số nội dung sau(7):
3.1.1. Nên có sự đánh giá Nho giáo, đánh giá ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam trong thời gian qua, nhất là từ khi Đảng, Nhà nước ta chủ trương đổi mới, mở cửa hội nhập. Chúng ta đánh giá cao Khổng Tử và vai trò của ông trong lịch sử phát triển của nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam, và những đóng góp nhất định của ông đối với thế giới ngày nay. Nhưng nếu coi Không Tử là nhân vật lỗi lạc nhất của nhân loại và coi thế kỷ 21 là thế kỷ của Khổng giáo thì có gì chưa ổn. Bởi vì, trong thế kỷ 21 mà chúng ta đang sống hôm nay, loài người đã khai thác, phát huy những thành tựu vĩ đại của nhân loại từ xưa đến nay, trong đó Khổng Tử chỉ là một đóng góp. Chúng ta cũng đứng quá cường điệu khi cho rằng Nho giáo đã từng là nhân tố tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá gần đây của các nước theo Nho giáo, vậy câu hỏi đặt ra là Nho giáo có chịu trách nhiệm gì không trước sự khủng hoảng kinh tế đang diễn ra gần đây không ?
3.1.2. Việt Nam cũng như những nước nói trên từ lâu nay chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nếu các nước xung quanh trong cùng khu vực khai thác được những nhân tố tích cực của Nho giáo, thì Việt Nam cũng sẽ làm được, không những thế mà còn biết phải khai thác Nho giáo với tinh thần chủ động và sáng tạo, thích

____________________
(7). Tham khao bài viết phục vụ hội thảo: Vai trò của Nho giáo ở Việt Nam hôm nay của Giáo sư Vũ Khiêu.

hợp với tình hình thực tế Việt Nam, vừa tiếp thu những bài học quý báu, vừa phải gạt bỏ những kinh nghiệm không thể chấp nhận được ở Việt Nam. Bởi vì, bất cứ di sản văn hoá nào cũng được đánh giá như nhau và xử lý như nhau ở những hoàn cảnh khác nhau và tầng lớp khác nhau. Từ truyền thống sang hiện đại là một quá trình vừa liên tục, vừa dứt đoạn. Cái hiện đại không xoá sạch cái truyền thống, và cái truyền thống chỉ có lý do tồn tại khi nó được sàng lọc và kiểm nghiệm thông qua cái hiện đại.
3.1.3. Trải qua hàng chục thế kỷ, những nhà nho bảo thủ ở Việt Nam thường trích dẫn những lời nói của Khổng - Mạnh để biện minh cho những chính sách bảo thủ về mặt kinh tế. Việc Nho giáo đề cao nông nghiệp đi đôi với việc hạ thấp công nghiệp và thương nghiệp đã có tác dụng tiêu cực không nhỏ vào sự kéo dài tình trạng trì trệ của Việt Nam. Chúng ta cũng cần có cái nhìn biện chứng, xuất phát từ tình hình cụ thể đất nước để khai thác những tư tưởng tích cực nói trên của Nho giáo, cổ vũ mọi người làm giàu cho bản thân và cho đất nước, song không được làm giàu một cách phi pháp và bất nghĩa và cũng không được đem những khẩu hiệu đạo đức suông để cản trở việc làm giàu.
3.1.4. Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam đã lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến, trả lại cho nhân dân địa vị làm chủ đất nước, lên án sự áp bức bóc lột, khẳng định sự bình đẳng nam nữ, bước đầu thực hiện sự công bằng  xã hội. Thế nhưng, trong tình hình hiện nay, Nho giáo cũng có nhiều điểm không phù hợp với  xã hội mới, đó là vấn đề tu thân. Ngày nay, chúng ta cũng đặt ra nhiệm vụ tu thân lên hàng đầu, đang phát động phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nên việc tu thân không phải tu theo kiểu đạo đức cũ mà tu thân với tinh thần đạo đức mới hôm nay.
3.1.5. Việc khai thác vai trò của gia đình trong sự nghiệp phát triển của đất nước, ở Việt Nam không bao giờ phủ nhận toàn bộ đạo đức Nho giáo trong gia đình, mà chỉ gạt những nhân tố tiêu cực của nó mà thôi. Hiện nay, nhiều sinh hoạt kiểu gia đình cũ đang được khôi phục lại. Mọi người quan tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, chăm lo mồ mả, sử sang nhà thờ họ, tìm lại gia phả, nhận lại anh em họ hàng gần xa. Tình hình này có xu hướng củng cố thêm quan hệ gia đình, tạo điều kiện khuyến khích mọi người phát huy nhân tố tích cực của gia đình trong lao động, học tập và trong sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Mặt khác, cũng cần ngăn chặn tư tưởng gia đình chủ nghĩa, thái độ họ hàng bao che cho nhau, tạo nên tính chất bè phái giữa các dòng họ trong một xã, giữa lợi ích xã hội và lợi ích gia đình trong phạm vi cả nước.
3.1.6. Trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội (ngũ luân), Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn thể hiện trong ngũ luân (Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè). Song những nhu cầu về quyền tự do của cá nhân và đời sống riêng tư, về ý thức dân chủ của con người đang trở thành những vấn đề mà Nho giáo chưa vượt qua...
3.1.7. Nho giáo đã từng đóng góp một vai trò to lớn trong lịch sử Việt Nam và chưa hết tác dụng của nó. Nếu không đặt vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ buông trôi cho sự phục hồi những yếu tố tiêu cực của nó, đồng thời cũng sẽ lãng phí những nhân tố tích sực mà nó còn có thể đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước hôm nay.
          Các nhà khoa học Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm về Nho giáo để có thái độ ứng xử đúng đắn đối với một học thuyết có ảnh hưởng lớn đối với tư tưởng, tình cảm và sinh hoạt ở nhiều nước châu Á ngày nay.

3.2 Kế thừa, vận dụng giá trị quan Nho học trong thế giới hiện đại.
          Di sản Nho học của quá khứ để lại cho hiện tại ở các nước Đông Á không thể không tính tới hai loại: những di sản đã quá thời và những di sản còn có giá trị. Những di sản đã quá thời như ở Việt Nam là thái độ gia trưởng, ý thức đẳng cấp trong cuộc sống cộng đồng, tư tưởng địa phương chủ nghĩa, cục bộ, bản vị, quan điểm trọng nam khinh nữ, tâm lý danh lợi, tư duy hoài niệm quá khứ, nệ cổ, không dám thay đổi lời nói của thánh hiền v.v.. của Nho học đang tồn tại và gây tác hại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, con người mới, cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam. Lẽ tất nhiên là phải đấu tranh để bài trừ. Nhưng mục đích của em là muốn nói tới giá trị quan Nho học trong thế giới hiện đại.
          Nói đến việc phát huy giá trị của Nho học là vấn đề kế thừa và vận dụng Nho học của con người hiện đại, là đề cập đến việc phải kế thừa và vận dụng giá trị đó như thế nào để khỏi sa vào chủ nghĩa phục cổ, để khỏi phải quay đầu về quá khứ mà thoát ly hiện đại.
          Ở xã hội Việt Nam hiện đại, nhiều giá trị Nho học vẫn còn có ý nghĩa. Những phẩm chất nhân, nghĩa trung, hiếu của kẻ sĩ, những cách thức tu thân, tề gia, trị quốc… của bậc “đại học”, những cốt cách cứng cáp của kẻ đại trượng phu, những phong thái ung dung của người quân tử, những nguyên tắc xử lý trước “nghĩa” và “lợi” của người có học, v.v.. là những giá trị mà con người hiện đại có thể kế thừa, miễn là sự kế thừa đó có phương pháp thích hợp.
          Về vấn đề này đã có nhiều người nói tới. Có người nêu lên là phải vứt bỏ cặn bã, tiếp thụ tinh hoa, có người nêu chỉ chấp nhận cái tốt, còn phải loại trừ cái xấu, có người chủ trương kế thừa cái trừu tượng, vứt bỏ cái cụ thể,… của truyền thống. Các chủ trương trên đều đúng, song chưa cho thấy cách vận dụng phải như thế nào cho thích hợp với xã hội hiện đại.
          Để Nho học phát huy được vai trò tích cực cần thì chúng ta phải nâng giá trị Nho học lên bình diện hiện đại, lấy yêu cầu của xã hội hiện đại để yêu cầu Nho học, tạo cho giá trị đó tính chất hiện đại rồi tác động trở lại đối với con người và xã hội hiện đại. Bởi vì Nho học truyền thống, kể cả giá trị quan của nó đều mang tính hai mặt: mặt hạn chế do bản thân Nho giáo mang dấu ấn của xã hội phong kiến, mặt nhân văn do lý tưởng về một xã hội và con người tốt đẹp mà có. Lấy yêu cầu của xã hội hiện đại để yêu cầu Nho học nghĩa là vứt bỏ mặt hạn chế, phát huy mặt nhân văn của nó trên cơ sở đã được thực hiện hoá. Không làm được điều đó thì sẽ có nguy cơ từ bỏ hiện đại mà quay về truyền thống. Đã có biết bao hiện tượng diễn ra trong lịch sử là phần tử bảo thủ đã dựa vào truyền thống để chống đối hiện đại, là hiện tượng “người chết níu áo người sống” làm cho xã hội không phát triển lên được. Nói cách khác là có hiện đại hoá Nho học thì Nho học đó mới phục vụ được xã hội hiện đại. Nếu nói rằng cần phải xây dựng và phát triển Nho học trong giai đoạn hiện đại thì trước hết phải đảm bảo được tiền đề của hiện đại hoá nó.
          Hiện đại hoá Nho học không phải là tuỳ tiện gán ghép cho Nho học những nội dung mà nó không có, mà bổ sung cho nó những yếu tố mới trên cơ sở của nội dung cũ. Các khái niệm, các mệnh đề của Nho học vốn được sử dụng trong xã hội phong kiến, nay bổ sung tư tưởng mới cho chúng thì sẽ trở nên thích hợp, không những thế còn được xã hội hiện đại chấp nhận một cách thích thú vì tư tưởng mới đó có một phần của tư tưởng cũ và được hình thức cũ thân thuộc chuyển tải. Chẳng hạn khái niệm “trung” và “hiếu” của Nho học vốn có nghĩa là trung với vua và hiếu với cha mẹ mình, nhưng ngày nay thì không còn vua để trung nữa, còn hiếu trên tinh thần nhân văn cao cả thì chẳng lẽ chỉ hiếu với cha mẹ mình mà không hiếu với bậc cha mẹ khác, cha mẹ nói chung, tức là hiếu với nhân dân. Phải biến đổi nội dung của chúng đi thì mới sử dụng được. Ở đây trung và hiếu có mang một nội dung mới thì mới phát huy được tác dụng. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã thực hiện được yêu cầu một cách tự nhiên và khéo léo rằng: Người cán bộ cách mạng phải: Nhận rõ phải trái. Giữ đúng lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân.
          Trung ở đây là trung với đất nước, hiếu ở đây không chỉ là hiếu với cha mẹ mình mà còn hiếu với cả nhân dân. Đối tượng của trung và hiếu đó đã được mở rộng và do đó tính chất đã được nâng lên một bước cao hơn, đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới. Cách vận dụng của Bác vừa mang tính chất truyền thống vừa mang tính chất hiện đại nên nó vừa là truyền thống vừa là hiện đại, dễ đi vào lòng đã quen với quần chúng.
          Xã hội hiện đại thị trường làm cơ chế vận hành, lấy lợi nhuận làm động lực phát triển, lấy tự do cá nhân làm điều kiện cho sự sáng tạo, v.v.. đã và đang là động lực tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh, xã hội giàu lên nhanh, nhưng mặt trái của chúng sẽ có lúc bộc lộ ra gây nên phản tác dụng, đó là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ làm lợi cho mình nhưng lại hại đến lợi ích của cộng đồng, là tâm trạng cô đơn, chán nản vừa hại cho mình vừa hại cho xã hội, là hiện tượng chà đạp lên mọi giá trị văn hoá mà loài người cũng như từng dân tộc phải mất bao nhiêu thời gian và sức lực mới tạo dựng được. Tất nhiên đó không phải là tượng sẽ có ở tất cả mọi người, mà là chỉ có ở một số người, nhưng không khỏi gây nên những trục trặc cho cỗ xe lịch sử, không khỏi làm cho cả xã hội phải đau xót, nhức nhối tâm can. Kế thừa những giá trị Nho học truyền thống, nâng chúng lên trình độ hiện đại, bổ sung thêm giá trị mới cho chúng, kết hợp giá trị đã được nâng lên đó với giá trị hiện đại thì sẽ tạo ra được sự phát triển bền vững, vừa có lợi cho mỗi người, vừa có lợi cho xã hội.

Biết khai thác Nho giáo trong quản lý đất nước:
- Phải đặc biệt mở mang việc học tập. Người quân tử (hay kẻ sĩ) những tầng lớp ưu tú trong xã hội, những người tham gia quản lý đất nước, trước hết phải là những người có học và học giỏi. Đây là đặc điểm quan trọng ở những nước theo Nho giáo và là một nhân tố đẩy mạnh sự phát triển nhanh chóng của những nước này.
- Những người trong bộ máy Nhà nước nhất thiết phải là những người có đạo đức. Đây là điều kiện đầu tiên để cho dân yêu, dân tin, dân phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân và tham nhũng là những người độc ác. Để cho nhân dân đói rét thì nhà vua cũng phải có tội. Điều này là một sức mạnh từ trong nhân dân để ngăn chặn và chấm dứt sự tham nhũng và suy thoái của những người trong bộ máy chính quyền .
- Nho giáo đề cao việc cai trị nhân dân không chỉ bằng pháp luật mà trước hết phải bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo (Đức trị, nhân trị, lễ trị). Tư tưởng này của Nho giáo có tính chất không tưởng và dễ bị xuyên tạc. Ngược lại những lời tuyên bố tốt đẹp “coi dân như con”, giới cầm quyền trước đây thường xử phạt dân dựa vào những “tiêu chuẩn đạo đức” được hiểu một cách tuỳ tiện hơn là dựa vào những luật lệ đã thành văn. Vấn đề đặt ra hôm nay cho chúng ta là có thể khai thác những gì từ Nho giáo trong quá trình kết hợp giữa đạo đức và pháp luật nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một nền đạo đức mới, sẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hôm nay, vừa xây dựng những con người kiểu mới cho xã hội ngày mai.

KẾT LUẬN
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
            Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.

 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội
(1)  “Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”” [ tr.493]
(2) “Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân” [tr340]
(3)  “Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” [tr473]
(4)  “Khắc kỉ phục lễ vi nhân [tr471]
(5)  “danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc” [ tr489 - 499]
2. Vũ Khiêu (chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
2. Đại Việt sử ký toàn thư. t.II (1993). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Thơ văn Lý - Trần. t.III (1978). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. t.1(1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.





 


Share:
spacer

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

do