Quan điểm thứ nhất
cho rằng Triệu Đã hay Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu
Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà Triệu là triều đại
chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Quan điểm thứ hai
cho rằng Triệu Đà là người Hán, theo lệnh Tần Thủy Hoàng đi chinh phạt
Bách Việt, khi nhà Tần mất thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ
ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu
thời kỳ Bắc thuộc.
Quan điểm công nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam
Từ khi giành lại quyền tự chủ, nhiều
triều đại Việt đề cao vai trò lịch sử của Triệu Đà. Các bộ quốc sử Việt
Nam suốt thời phong kiến đều chép nhà Triệu là một triều đại chính
thống. Nhà Trần phong ông là Khai thiên Thế đạo Thánh vũ Thần triết
Hoàng đế.
Đời Trần, sử gia Lê Văn Hưu soạn bộ Đại
Việt sử ký, chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Ông so sánh Vũ Đế
với các bậc vua hiền thời cổ như Thuấn, Văn Vương:
"Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không
thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái
Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di
nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc
vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất
rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai
thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư
xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy
có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt
chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với
láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu
dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được".
(Bộ sử này nay không còn, nhưng lời bàn của Lê Văn Hưu được Ngô Sĩ Liên dẫn lại trong Đại Việt sử ký toàn thư.)
Sau khi bình xong quân Minh, Nguyễn Trãi thay lời Bình Định Vương Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo, rằng:
Tự Triệu, Đinh, Lí, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tức là:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nên độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương .
Hai câu này khẳng định nước Việt không
những độc lập với phương Bắc mà còn xưng đế hiệu cùng một thời (nhà
Triệu với nhà Hán), tỏ ra hoàn toàn ngang hàng.
Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, sử gia nhà Lê cũng dành cho Triệu Vũ Đế những lời tốt đẹp:
"Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức
lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm gì mà được
như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai
anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần
mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy
giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu
được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm
nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua".
Vua chính hợp câu ấy".
Trong An Nam chí lược, Lê Tắc viết:
"Triệu Đà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một ít.
Điều này chứng tỏ Triệu Đà là người mang sự học đến Việt Nam từ trước
chứ không phải Sĩ Nhiếp".
Cuối đời Nguyễn, Trần Trọng Kim soạn Việt Nam sử lược vẫn chép nhà Triệu là chính thống.
Quan điểm phủ nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam
Người đầu tiên đánh giá lại vai trò của
nhà Triệu có lẽ là Ngô Thì Sĩ, cuối đời Hậu Lê. Trong Việt sử tiêu án,
ông khẳng định nước Nam Việt là ngoại bang, Triệu Đà là kẻ ngoại tộc:
"An Dương Vương mất nước, để quốc thống
về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Kỷ Triệu Vũ Đế". Người đời theo sau đó
không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không
phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long
Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào
làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở
nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì
sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng
Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà
kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước
Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa
Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để
phân biệt với nội thuộc vậy".
Ngô Thì Sĩ kết luận: "Nước ta bị nội
thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu
Đà thì còn ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy
chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán,
đầy túi tham của Lục Giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương
trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép
như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi,
đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm
thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua
hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ
càng".
Học giả Đào Duy Anh, trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam, cũng phê phán sử cũ và coi nhà Triệu là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Đó cũng là quan điểm chính thống hiện nay của Việt Nam, phản ảnh trong tất cả sách sử và trong cả các lãnh vực khác.
Chỉ có ngoại lệ là cuốn Niên biểu Việt
Nam[1], tiếp theo nhà Thục, kê rõ nhà Triệu với đầy đủ các đời vua, tiếp
theo là đến "Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa thống trị lần
thứ nhất" tính từ năm 111 TCN. Trong bảng tra cứu niên hiệu các đời vua
Việt Nam cũng liệt kê niên hiệu Kiến Đức của Thuật Dương Vương, vua
cuối nhà Triệu (thật ra Kiến Đức là tên húy của ông vua này). Ngoại lệ
này có lẽ do sách niên biểu cốt để phục vụ việc tra cứu, trong khi nhiều
sử sách xưa của Việt Nam đã coi nhà Triệu là vua Việt Nam.
Các luận điểm tranh cãi chính
Vấn đề nguồn gốc của dòng vua
Xoay quanh vấn đề Triệu Đà và nhà Triệu,
mấu chốt là do quan điểm nhìn nhận. Các sử gia không có xu hướng coi
nặng việc tìm nguồn gốc Triệu Đà và bản chất dân nước Nam Việt sẽ nhìn
nhận Triệu Đà là vua Việt Nam. Ngược lại những người coi trọng nguồn gốc
xuất thân, dân tộc của người cầm đầu chính quyền, và bản chất dân nước
Nam Việt thì sẽ có nhìn nhận khác.
Triệu Đà là người Hán, vốn là tướng nhà Tần, quê ở Chân Định (tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay), mộ cha mẹ vẫn táng ở đấy.
Bên công nhận nhà Triệu cho rằng:
Nếu đặt ra vấn đề nguồn gốc của Triệu
Đà, thì chính nguồn gốc của An Dương vương, gần đây cũng được nhiều nhà
nghiên cứu nêu ra, sẽ không khác gì Triệu Đà. Theo một số công trình
nghiên cứu gần đây (Lịch sử Việt Nam tập 1, Theo dòng lịch sử - nhiều
tác giả) thì Thục Phán vốn gốc là dòng dõi người nước Thục ở Tứ Xuyên
(Trung Quốc) và sang xâm lược nước Văn Lang, tiêu diệt Hùng Vương. Nếu
vậy, An Dương vương liệu còn là một triều đại Việt Nam không? [2] Đi xa
hơn nữa, nếu truy về nguồn cội tổ tiên, thì còn những trường hợp khác mà
sử đã ghi, như Lý Nam đế (Lý Bí) có tổ 7 đời là người phương Bắc (Trung
Hoa) vào Việt Nam, hoặc tổ tiên 5 đời của nhà Trần cũng vốn xuất thân
từ đất Mân (Phúc Kiến - Trung Quốc) sang; tổ tiên của Hồ Quý Ly là Hồ
Hưng Dật sang Việt Nam thời Dương Tam Kha (sử chép là thời Hậu Hán 947 -
950, tương đương Dương Bình vương) được phong chức ở châu Hoan...
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trên thế
giới, việc một người nước ngoài làm vua không phải là không có. Chẳng
hạn nước Nga vẫn ghi nhận vợ của Pyotr Đại đế là Ekaterina I, dù không
phải là người Nga, nhưng được chồng cho thừa kế ngôi, là nữ hoàng như
các nữ hoàng khác.
Tuy nhiên, những người phản bác cho rằng
trường hợp nữ hoàng Ekaterina I của Nga cũng không thể so với Triệu Đà:
một đàng chỉ một người ngoại quốc đã "nhập gia" quê chồng, còn triều
đình, quân đội, ngôn ngữ vẫn là bản địa, đằng kia toàn bộ triều đình,
quân đội, ngôn ngữ là dị biệt. Đặt giả định nếu nhà Tần không mất thì
Triệu Đà sẽ không tách ra cát cứ, và cũng sẽ chẳng có nước Nam Việt mà
đó chỉ là một quận của Trung Hoa mà thôi. Vai trò của Triệu Đà khi ấy sẽ
chẳng khác gì những viên quan Thái thú người Hán khác đã cai trị Việt
Nam suốt thời Bắc thuộc.
Theo tác giả Hà Văn Thùy[3], cuối thế kỷ
18, vua nước Xiêm là một người Trung Quốc tên Trịnh Quốc Anh[4] từng
kéo quân sang đánh Hà Tiên. Trong khi đó, Triệu Đà có vợ Trình Thị là
người Đường Thâm, Giao Chỉ, nên các con cháu ông - các đời vua sau của
nhà Triệu - đều có phần máu Việt. Cũng theo ông Hà Văn Thùy thì "đúng
Triệu Đà là người Hán nhưng đất Nam Việt lúc đó hầu hết là người Việt,
vì vậy không thể phủ nhận việc ông là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt,
ông vua khai sáng của Việt Nam chúng ta".
Vấn đề "xâm lược" hay "thống nhất"
Những người phản đối tính chính thống
của nhà Triệu, trong đó có Ngô Thì Sĩ, lập luận rằng Triệu Đà khởi phát ở
bên ngoài lãnh thổ nước Việt, chiếm nước Việt làm quận huyện. Nước Nam
Việt của Triệu Đà không phải nước Việt với ba vùng Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam mà trong sử sách Việt Nam vẫn coi là lãnh thổ của mình. Do đó,
nếu coi Triệu Đà là một vua Việt Nam thì giả thuyết này coi nước Việt
Nam lúc ấy bao gồm cả các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một phần của tỉnh
Hồ Nam, Vân Nam, và Phúc Kiến của Trung Quốc bây giờ. Nếu không thì phải
cho đây là một sự xâm lược.
Một số học giả lại không cho việc Triệu
Đà sáp nhập vùng đất của Âu Lạc vào Nam Việt là xâm lược. Tác giả Hà Văn
Thùy[3] lập luận rằng "sự liên kết trong mỗi quốc gia còn lỏng lẻo và
biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng sáp nhập tập
trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Do đó, việc thôn tính các
nước Sở, Ngô, Việt... để thành nước Tần không phải hành động xâm lược
mà là công lớn thống nhất đất nước. Tương tự vậy, việc Triệu Đà chiếm Âu
Lạc cũng không thể coi là cuộc xâm lược mà là hành động thống nhất
những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành môt nước Việt lớn hơn,
ngăn chặn hành động thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc." Học giả này
đánh giá cao vai trò của nhà Triệu trong việc "tạo nên và củng cố tinh
thần quốc gia của người Việt", và cho rằng đó là "di sản quý báu nhất họ
Triệu để lại cho người Việt".
Theo một nghiên cứu của tác giả E Lusuo
người Đài Loan về quá trình nhà Tần bình định vùng Nam Việt, dẫn tại
[5], vào thời nhà Tần, dân cư bên này hay bên kia biên giới Việt-Trung
hiện đại là không thể phân biệt được[6]; các học giả Trung Quốc gọi họ
là người Lạc Việt, họ được cho là sử dụng cùng một ngôn ngữ.
Vấn đề chấp nhận triều đại ngoại tộc
Có người cho rằng quan điểm của các sử
gia Việt Nam và Trung Quốc, một nước phong kiến khác tại châu Á, có sự
khác nhau. Ở Trung Quốc, có nhiều triều đại, điển hình là Bắc Ngụy thời
Nam Bắc triều, nhà Nguyên, nhà Thanh đều xuất thân ngoại tộc, không phải
người Hán, nhưng sử sách vẫn chép như những triều đại khác của Trung
Quốc, không coi là thời kỳ bị nội thuộc Hung Nô hay Mông Cổ. Những triều
đại này sử dụng tiếng Hán, nghi lễ tập tục trong triều đã Hán hóa khá
nhiều. Thậm chí người Mãn đã Hán hóa đến mức ngày nay chỉ còn một số rất
ít người già còn biết tiếng Mãn, còn lớp trẻ chỉ biết tiếng Hán, một
phần người Mông Cổ hay người Mãn ngày nay là 2 trong số 56 dân tộc của
Trung Quốc, tức là lịch sử của họ cũng có thể coi là một phần lịch sử
quốc gia. Ngoài ra, đất đai của các triều đại này phần lớn là lãnh thổ
Trung Quốc ngày nay.
Theo học giả Lê Thành Khôi thì mặc dù
gốc Trung Hoa, Triệu Đà đã chịu đồng hóa với dân Nam Việt, mà ông chấp
nhận các phong tục tập quán đến độ gần như quên cả quá khứ của mình.[7]
--------------------------------------------------------------
Chú thích:
1. Vụ Bảo tồn Bảo tàng, Niên biểu Việt Nam, Hà Nội:Nxb Khoa học Xã hội, 1984
2. Có thuyết khác cho rằng Thục Phán không thể xuất xừ từ nước Thục ở Tứ Xuyên vì nơi đó quá xa Việt Nam, mà Thục Phán chính là thủ lĩnh của người Âu Việt (người Tày và người Nùng cổ) ở phía Tây Bắc Việt Nam.
3. Hà Văn Thùy, Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa.
4. Trịnh Chiêu (郑昭) - Taksin, vua Xiêm từ 1767 đến 1782, sinh tại Ayutthaya, Thái Lan, bố là người gốc Trừng Hải (澄海), Trung Quốc, mẹ là người Thái.
5. Jeffrey Barlow, The Zhuang: A Longitudinal Study of Their History and Their Culture, Section Chap. 3: The Qin Invasion of the Lingnan
6. Một sự kiện lịch sử ủng hộ thuyết này đó là: cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng cũng nhận được sự ủng hộ và tham gia của cư dân tại các quận Nam Hải, Hợp Phố mà nay thuộc địa phận Trung Quốc.
7. Lê Thành Khôi, Le Vietnam, histoire et civilisation, les Edition de Minuit, Paris 1955, tr 93
2. Có thuyết khác cho rằng Thục Phán không thể xuất xừ từ nước Thục ở Tứ Xuyên vì nơi đó quá xa Việt Nam, mà Thục Phán chính là thủ lĩnh của người Âu Việt (người Tày và người Nùng cổ) ở phía Tây Bắc Việt Nam.
3. Hà Văn Thùy, Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa.
4. Trịnh Chiêu (郑昭) - Taksin, vua Xiêm từ 1767 đến 1782, sinh tại Ayutthaya, Thái Lan, bố là người gốc Trừng Hải (澄海), Trung Quốc, mẹ là người Thái.
5. Jeffrey Barlow, The Zhuang: A Longitudinal Study of Their History and Their Culture, Section Chap. 3: The Qin Invasion of the Lingnan
6. Một sự kiện lịch sử ủng hộ thuyết này đó là: cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng cũng nhận được sự ủng hộ và tham gia của cư dân tại các quận Nam Hải, Hợp Phố mà nay thuộc địa phận Trung Quốc.
7. Lê Thành Khôi, Le Vietnam, histoire et civilisation, les Edition de Minuit, Paris 1955, tr 93
Theo WIKIPEDIA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét