Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là
việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm
trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá
khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá
gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không
cho phép có cái nhìn xa hơn!
Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm
trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu
tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?
I. Khởi đầu từ lịch sử
Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ
của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ
đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một
niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội
nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai
nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế
Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa
cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa
giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy,
muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May
mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.
Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu
xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu
giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của
nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước,
người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau
khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai
phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt
đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT
với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người
thời đó(Việt bộ Qua -戈).20.000
năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra
đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên
của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân
cây lúa(Việt bộ Mễ -粤)!Rồi
từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn
hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc
tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông
nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết
với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt
mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ
nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc.
Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ
Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen,
tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với
Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid
phương Nam.
Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt
chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông
nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng
đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu
vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt
luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc.
Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để
trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo
của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một
cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông,
khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ
chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên
thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực
lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị
một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho
hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần
Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của
Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương
Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN... Trong bối cảnh như vậy, ta
thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước
Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì
đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh?
Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba
nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam
(Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở
phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện.
Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai
bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền
thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu
Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản
Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây
chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với
mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời
thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó Hoàng Đế là chủ soái!
Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung,
chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng
trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc
Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân
Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ
gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng
Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào
Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong
Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng,
đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm
vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển
lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN
cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó
cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra
trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)
Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn
hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người
Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt
người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN
là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.
Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:
Khoa học xác định mã di truyền của người
Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ
của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là
người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid
phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ
phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới,
chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn
Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và
trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không
hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid
phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500
năm trước.
Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta
thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có
người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid
phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông
Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi
này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái
Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi
Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.
Như vậy, có hai giai đoạn hình thành
người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá
Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt
hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang
mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ
Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do
thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam,
lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ
tiên trực tiếp của chúng ta.
Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm
đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người
Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận
được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú
của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim
của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng
của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến
trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các
vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người
khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông
nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên
nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là
đâu?!
II.Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.
1.Quá trình hình thành
Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào
Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi
Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng
sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh... Chạy giặc,
bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau
hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng
nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc
cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc
khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra.
Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố
hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm
về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp
những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông,
Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn
làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả
hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành
lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi
thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu
tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số
thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới
chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã
đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị
còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu
chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông
thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy
ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với
hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao
nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho
họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ
chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy
quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên
triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính
sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc,
chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm
nay không?
Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng
ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn
son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần
phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt,
loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên
cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện
sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án,
những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng,
cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…
2. Đôi lời nhận định
Người viết bài này có lúc hăm hở theo
dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ
tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm
năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh
Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi
đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị
các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ
Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị,
Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ
của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” -
cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu
bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh,
Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin
những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh
Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều
Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ
lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà
truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ
là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có
đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi
không thể trả lời!
Khi không trả lời được những thắc mắc
trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy?
Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra,
những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một
lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa
một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân.
Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi
đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín
ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên...
Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian
trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!
Những người chủ trương việc này nghĩ
rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính
ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng
thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ
nhau!
Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:
Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không
hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất
mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con
sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ.
Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ
định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái
tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!
Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự
tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử
Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn
năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng
ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ
Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt
đầu định cư..” Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống
báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ
tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung
Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở
chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ
theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị
giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên
thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống
lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn
đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị
tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…
III. Kết luận
Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ
thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống
đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa
Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ,
phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn
năm ta tin như thế!
Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm
mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong
đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội
nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy
được nuôi bởi bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc
phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!
Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa
học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên
ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á
một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo
nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được
xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ
lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa
thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối
cùng của tổ tiên.
Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng
lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất
hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác
chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không
chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.
Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét