LÀNG THỔ NGÕA
CỐ HƯƠNG CỦA NGÀI TIỀN HIỀN
VÀ CON CHÁU HỌ VÕ LÀNG PHÚ THÁI
Đến năm 1074, năm năm sau khi Chế Củ mất ngôi, triều đình Chiêm Thành chống lại việc Chế Củ đầu hàng nhượng đất cho vua Lý, đem quân cướp lại ba châu, nhưng lần tiến quân nào cũng bị quân dân Đại Việt đánh bại. Từ năm 1284 đến năm 1288, trước nạn xâm lăng của quân Nguyên-Mông, ba nước Đại Việt, Chiêm Thành, Chân Lạp phải liên kết chống kẻ thù chung. Sau ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông thắng lợi, Đại Việt và Chiêm Thành trở nên thân thiện. Năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tông đi thăm Chiêm Thành, hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm lễ cưới. Năm 1307, Chế Mân lâm bệnh chết. Theo tục Chiêm Thành, hoàng hậu phải vào hoả đàn để tuẩn táng. Vua Trần Nhân Tông sợ Huyền Trân phải chết, sai người tìm cách cứu thoát. Sau sự kiện này, bang giao hai nước Đại Việt và Chiêm Thành lại rắc rối. Năm Hồng Đức (Lê Thánh Tông) thứ nhất (1470) Chiêm Thành đưa hơn
mười vạn quân xâm phạm bờ cỏi Đại Việt. Vua Lê Thành Tông tự cầm quân vào đánh chiêm Thành. Dẹp xong quân Chiêm, Vua xuống chiếu kêu gọi dân phiêu tán từ các vùng phía Bắc di dân xuốg phía Nam, lập ấp ở châu Bố Chính. Đây là đợt di dân thứ ba của nhà nước Đại Việt, sau đợt thứ nhất thời Lí Nhân Tông năm 1075 và đợt thứ hai thời Hồ Quý Ly năm 1403.
Gia phả họ Nguyễn còn lưu giữ được cho biết , ông Nguyễn Khống (tự Khắc Nhượng) quê làng Thổ Vượng, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (nay thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) là một võ tướng theo vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt ChiêmThành. Chiến thắng trở về năm 1471, thực hiện chiếu chỉ di dân của vua, ông đưa một số người vốn là binh sỹ dưới quyền vào đây khai hoang lập ấp. Vợ ông là bà Hoàng Thị Trường, người làng Ngoạ Kiều cùng huyện với ông cũng đưa các con theo chồng đi xây dựng quê hương mới. Tên làng Thổ Ngoã do ông Nguyễn Khống đặt năm 1472 trên cơ sở ghép hai từ đầu của làng cũ, Thổ Vượng quê ông và Ngoạ Kiều quê bà. Dần dần dân cư làng Thổ Ngoã (Ngọa) ngày càng đông thêm. Ngoài họ Nguyễn còn có họ Trần, họ Trương, họ Đỗ... Ông Nguyễn Khống chủ trương phân chia điền thổ, đào giếng, lập chợ, xây dựng đình chùa, cắt đất tế lễ. Dân làng vô cùng mến mộ ông. Khi ông mất, cả làng tôn ông là “Thần hoàng” làng và thờ ông tại đình làng. Như vậy tính đến năm 2012, làng Thổ Ngoạ đã có lịch sử tròn 540 năm.
|
Xứ
Nghệ là tên
chung của vùng Hoan Châu (州) cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh)
từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi
là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng
- sông Lam. Núi Hồng Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam
nằm ở ranh giới giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Trung tâm của Xứ Nghệ nằm ở hai bên
dòng sông Lam là phủ Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa, tức là các huyện Hương
Sơn, Đức Thọ, Can Lộc,
Nghi
Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh
và các huyện Thanh Chương, Nghi Lộc,
thành phố Vinh, Hưng
Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn
của Nghệ An ngày nay.
Danh xưng Nghệ An có từ
năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời Lý Thái Tông. Lúc đó gọi là Nghệ An châu trại (刈安州寨), sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi Nghệ An
phủ (刈安府), Nghệ An thừa tuyên (刈安承宣). Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 21) đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính
khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ
Sơn Nam, xứ Đông, xứ
Đoài, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn... Năm 1831, thời vua Minh
Mệnh, Xứ Nghệ bị tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1976, hai tỉnh
lại hợp thành tỉnh lớn Nghệ
Tĩnh. Năm 1991, tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay.
Cương vực xứ Nghệ bắt đầu
được mở rộng sang lãnh thổ Lào ngày nay từ thời nhà Lê sơ,
phát triển đến rộng nhất là thời vua Minh
Mạng nhà
Nguyễn (với 11 phủ), đến thời Pháp
thuộc thì người Pháp cắt khoảng nửa về cho đất Lào (5/11 phủ), phần còn lại
tương đương với lãnh thổ 2 tỉnh Nghệ An
và Hà
Tĩnh ngày nay.
Năm Thuận Thiên nguyên
niên thuộc đạo Hải Tây
Năm Quang Thuận thứ 7 đặt làm Nghệ An thừa tuyên; Năm Hồng Đức thứ 1, định bản
đồ tỉnh này có 9 phủ, 27 huyện, 2 châu. Thiên nam dư hạ lục chép rằng: Phủ Đức
Quang lĩnh 6 huyện là Thiên Lộc, La Sơn, Nghi Xuân, Chân Phúc, Hương Sơn, Thanh
Giang, Phủ Anh Đô lĩnh 2 huyện là Nam Đường, Hưng Nguyên. Phủ Diễn Châu lĩnh 2
huyện là Đông Thành và Quỳnh Lưu. Phủ Hà Hoa lĩnh 2 huyện là Thạch Hà và Hà
Hoa. Phủ Trà Lân lĩnh 4 huyện là Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang, Hội Ninh. Phủ
Quỳnh Châu lĩnh 2 huyện là Trung Sơn, Thuý Vân, Phủ Trấn Ninh lĩnh 7 huyện là
Quang Vinh, Minh Quảng, Cảnh Thuần, Thanh Vị, Kim Sơn, Châu Giang, Trung Thuận.
Phủ Ngọc Ma lĩnh một châu Trịnh Cao, phủ Lâm An lĩnh một châu Quy Hợp. Toàn hạt
25 huyện, 2 châu.
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ: Xứ Nghệ.
Lúc bấy giờ, Xứ Nghệ gồm 9 phủ.
Phủ Đức Quang quản lĩnh 6 huyện: Thiên Lộc (Can Lộc và bắc Lộc Hà ngày nay), La Sơn
(Đức Thọ), Chân Phúc
(Nghi Lộc), Thanh Chương (gồm huyện Thanh
Chương và tây nam huyện Nam Đàn
hiện nay), Hương Sơn (bao gồm các huyện: Hương
Sơn, Vũ Quang,
Hương Khê ngày nay) và Nghi Xuân.
Nơi đây sanh ra rất nhiều hiền
tài xưa nay, có tầm ảnh hưởng của xứ sở địa linh nhân kiệt đất Nghệ An – Hà
Tỉnh và núi sông hùng vĩ. Họ Võ tại đó, sẽ mang theo hào khí ấy. Cội nguồn của
họ Võ Phú Thái tại huyện Can Lộc thuộc phủ Đức Quang xa xưa còn ai, dấu tích tổ
tiên thế nào, chưa có cơ hội hành hương về nguồn cội để truy tìm. Lá rụng sẽ về
cội, những giọt máu họ Võ tha hương sẽ có ngày hòa chung với dòng máu nguyên sanh.
Nguồn từ
internet
SƠ LƯỢC
TIỂU SỬ VŨ CÔNG THỦY TỔ
Theo các tư liệu
nghiên cứu về lịch sử dòng họ Vũ- Võ Việt Nam, vào đời nhà Đường, khoảng đầu
thế kỷ thứ 9, có một vị quan tên Vũ Huy người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ
Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường xin nghỉ
hưu. Ông Vũ Huy vốn tinh thông khoa địa lý phong thủy, vì vậy trên đường đi du
ngoạn về phương Nam.
Đến ấp Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu, nay là thị trấn Nam Sách,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Ngài thấy một thế đất đẹp ở khu cánh đồng có 98 gò đất nhỏ bao
quanh một gò cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời (cửu thập bát tú
triều dương ). Cái gò ấy địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lý - phong
thủy nếu mộ táng ở đây con cháu sẽ phát về khoa bảng, công danh hiển hách. Cụ
Vũ Huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang táng ở Đống Dờm, rồi làm
nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ.
Khi ấy ở làng Mạn Nhuế
có một thôn nữ tên Nguyễn Thị Đức là con nhà nề nếp, tính tình đoan trang phúc
hậu. Có lẽ do duyên trời đã định, nên gia đình cô thôn nữ đã chấp nhận lời cầu
hôn của ông Vũ Huy. Được hơn một năm, bà
có thai, ông đưa bà trở về Phúc Kiến.
Mùng Tám tháng Giêng năm Giáp Thân (804) bà sinh con
trai. Ông bà đặt tên con là Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Ngài rất khôi ngô, tuấn
tú. Vua Đường khen ngợi cho là nhân tài,
vì thơ văn hay, sách lược giỏi, nên xuống chiếu bổ dụng một chức quan trong Tả
Thị Lang Bộ Lễ triều đình, phụ trách lễ
nghi, cúng tế và thi cử trong nước. Được 2 năm thăng chức Đô Đài Ngự Sử.
Năm 841 (Tân Dậu) đời Đường Vũ Tôn, niên hiệu Hội
Xương thứ nhất, Ngài được cử làm Kinh Lược Sứ thay Hàn Uớc. Trong thời gian ở
An Nam, Ngài Vũ Hồn đã đi kinh lý và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chú ý
việc tìm địa điểm tốt vì Ngài đã muốn chọn quê ngoại để định cư sau này.
Ngài đã nhiều lần về Mạn Nhuế thăm mộ ông nội ở Đống
Dờm, sau đó đã đi thăm tất cả các vùng lân cận. Một lần Ngài đến trang Lạp
Trạch huyện Đường An thấy về phía Tây thôn ấy có cánh đồng hoang, cỏ lau rậm
rạp, rải rác có những gò đống tựa 5 con ngựa, 7 ngôi sao ( ngũ mã tiền triều,
thất tinh hậu ứng) hoặc những ao, mà
dưới đáy có doi đất nổi lên như hình quả bút, nghiên mực, quyển sách… Theo kiến
thức về địa lý - phong thủy, đấy là một kiểu đất đẹp rất tốt cho hậu thế của
Trang Ấp này.
Sau đó một thời gian, Ngài xin từ quan, Vua Đường
chuẩn y. Ngài liền đưa mẹ sang An Nam định cư ở Lạp Trạch, vì theo Ngài: “Người
xưa được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến Tam Công cũng không sướng bằng, ta
nay còn có mẹ già, há nên tham giàu sang mà không nghĩ đến hiếu dưỡng hay sao?”
Ngài xây dựng cơ ngơi cho gia đình, rồi chiêu mộ dân
cư ở rải rác các vùng xung quanh về làm ruộng, khai hoang, giúp đỡ họ tiền bạc
để xây dựng nhà cửa. Ngài mở trường dạy học, bốc thuốc cho dân, lập nên một xóm
nhỏ, đặt tên là Khả Mộ trang ( có nghĩa là ấp Đáng Mến), sau dân cư đông đúc
thêm. Đời Trần đổi tên thành thôn Mộ Trạch (nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng,
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) dần dần thành một thôn ấp có văn hoá, có lễ
nghĩa và làm ăn thịnh vượng.
Do công đức to lớn của Ngài, nên dân làng Khả Mộ tôn
kính Ngài như cha mẹ, đã xin với Ngài rằng: “Dinh cơ ngài hiện nay để ở, sau
khi Ngài mất, dân làng sẽ dùng làm miếu để thờ phụng Ngài”. Ngài ưng cho, lại
bảo rằng: “Trang khu có hậu đạo với ta thì phải trọng lời di chúc của ta, mà
ngàn năm thờ phụng”. Ngài lại cho thêm năm nén vàng, tậu ruộng ao để cung ứng
cho việc tế tự, khỏi phiền dân đóng góp.
Ngày Rằm tháng Tám năm Canh Ngọ (850) mẹ Ngài - cụ bà
Nguyễn Thị Đức, qua đời Ngài khóc than
khôn cùng rồi rước linh cữu mẹ về táng ở xã Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm (làng
Kiệt Thượng, phường Văn An, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay).
Năm 853 (Quý Dậu), năm ngài vừa đúng 49 tuổi, ngày
mùng Ba tháng Chạp, ngài đang dạy học, thì thấy trong người khó chịu, rồi thiếp
đi, không bệnh gì mà hoá. Trang dân và gia nhân bèn rước ngài lên xứ Đồng Cạn,
một gò đất nhỏ trong cánh đồng phía Tây Bắc thôn trang để an táng.
Dân làng tôn Ngài làm Thành Hoàng, mới đầu thờ tại
dinh cơ Ngài để lại, về sau làm thêm đình, miếu thờ cũng để ghi công Ngài vừa
là người khai ấp Khả Mộ, vừa là người dạy dỗ đem học vấn, lễ nghĩa đến cho dân
cư trong làng. Đồng thời cũng thờ Ngài như một ông Tổ đầu tiên của dòng họ Vũ -
Võ nước Nam.
Bốn mùa hương khói không dứt cho đến ngày nay.
Sau khi Vũ công Thủy Tổ qua đời, đến lượt phu nhân
cũng được con cháu an táng liền kề bên, gọi là “mộ song táng”. Vì vậy, đến nay
khu gò đất táng di hài Ngài có tên Mả Thần. Mả Thần được tôn tạo, tu bổ vào năm
1993. Sau đó, có một số nhà công đức đã
mua thêm đất nới rộng và xây dựng mới rất hoành tráng, đường vào cũng được mở
rộng và khánh thành vào đầu năm 2011. Năm 2012 tiếp tục xây thêm Tháp Bút và
Nghiên Mực cùng vườn Tiến sĩ trong quần thể khu lăng mộ của Thủy tổ Dòng họ Vũ - Võ Việt Nam
trông vô cùng uy nghi và bền vững để lại cho đời sau chiêm ngưỡng.
VŨ HỮU CHÍNH
TT/BCH họ Vũ - Võ Phía Nam
tổng hợp tháng 01 năm 2013
NGÀI TRIỆU TỔ
VÕ CHÁNH ĐỨC
武正德
TUYÊN CHẾ BINH THƯ VỤ TRUNG ĐÔ CẬN THẦN
VÕ ĐẠI LANG
Thụy THƯỢNG SĨ CHI LINH
Sanh
hạ:
1/ Bà VÕ THỊ THƯỢNG 2/ Ngài VÕ VĂN NHƠN
3/ Ngài VÕ CHÁNH TRỰC
ĐỜI
THỨ NHẤT
CON NGÀI VÕ CHÁNH ĐỨC
TỔ CÔ
VÕ THỊ THƯỢNG
Thụy THIỆN CHI
LINH
Tư liệu xưa ghi
trong phó ý như sau:
Tổ cô Võ
nhất nương,
húy Thượng,
hiệu Thiện
chi linh.
Bà là chị cả, trưởng nữ của ngài Võ đại
lang Chánh Đức. Bà ở lại Nghệ
An cùng cha, thân thế và sự nghiệp nơi tổ quán lưu trữ, con cháu ở Quảng Nam
lâu đời không ai biết
thêm.
ĐỜI
THỨ NHẤT
CON NGÀI VÕ CHÁNH ĐỨC
Ông là trưởng nam của ngài
Chánh Đức, ông làm quan cuối thời vua Lê – chúa Trịnh.
Chúa Nguyễn Hoàng chiêu tập
người đàng Ngoài vào khai phá xây dựng đàng Trong, nhân cơ hội ngài từ quan vào
Quảng Nam khai phá, lập ấp Phú Khương, sau đổi thành làng Phú Thái, dân tôn
ngài là tiền hiền. Ngài sanh hạ cháu con và là vị tổ đời thứ nhất của họ Võ làng Phú Thái.
Bà vốn người làng Thổ Ngõa,
huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, tỉnh Nghệ An, là cháu tằng tôn của tướng Trần
Nguyên Hãn.
Ông bà ra đi gặp may mắn và đã
chọn được nơi đắc địa để an phận, vui thú điền viên, dành lúc an nhàn huấn dụ
cháu con học đạo thánh hiền lấy Phật đạo tu học thuần hành cầu quả phúc.
Ảnh mộ ông
|
Khi mất ông thọ 74 tuổi, mộ táng tại Gò
Soài Nhị tục gọi xứ mả cố. Năm 1995 (Nhâm Thân) hậu duệ trong và ngoài nước
cùng chung nhau xây thành lăng. Đến năm 2003 tu sửa thêm cho khang trang và
thụy lập Thiên Định lăng giữa địa thế uy nghi thanh tú..
Lăng bà Tiền Hiền Phu Nhân cũng đã được
xây nguy nga vào tháng 3 năm 2003 nhằm tháng 2 năm Quí Mùi, thụy lập Thiên
Thuận lăng gần lăng ông..
Ảnh mộ bà
|
ĐỜI THỨ NHẤT
CON
NGÀI VÕ CHÁNH ĐỨC
Tư
liệu xưa ghi:
Thúc
tổ Võ
tam lang
Húy Chánh Trực
Hiệu Phụ
Độ chi linh.
Ông là thứ nam của ngài Chánh Đức, ông ở lại Nghệ An cùng cha. Thân thế và sự nghiệp của ông
lưu truyền nơi tổ quán, ở Quảng Nam
không thấy bút tích để lại nữa.
ĐỜI
THỨ HAI
CON
NGÀI VÕ VĂN NHÂN
Ngài trưởng nam ngài Lê
Triều Trung Quân Để Lãnh Thự Quốc Công, làm quan võ Nhà Nguyễn đến chức Quản
cơ, dung mạo ngài phương phi, binh pháp tinh thông.. Thời trai trẻ dọc ngang,
nhưng lúc trí sĩ ngài xuất gia cầu đạo tu Phật lấy pháp tự là Bích Nhãn Năng
Sư, đạo hiệu là Huyền Thông và thụy là Từ Hạnh Tiên Sanh.
Khi ông mất thọ 67 tuổi, mộ táng tại xứ
nhà thờ, lập bia ngày 26.3 năm Nhâm Thân đến 12.7 năm Ất Hợi (1997) con cháu trong và cả ngoài nước
trùng tu xây thành lăng Tổ Sư.
Danh tánh bà không có di chỉ nào ghi
lại
Ông bà sanh năm người con:
1/ Ngài Võ Văn Cảnh
2/ Ngài Võ Văn Thanh
3/ Ngài Võ Văn Long
4/ Ngài Võ Công Ba
5/ Bà
Võ Thị Luật
Ông bà có sáu người cháu nội trai nhưng đời sau vô
hậu, mả mồ bà xiêu lạc dấu tích.
Một vị quan khi trí sĩ, ông đã chọn thiền
môn tìm lý đạo soi lại những thiệt hơn trần thế. Ông đã ngộ ra rằng đúng cũng ở
đó và sai cũng ở đó, vì vốn dĩ là vô thường. Trên đầu là cửa Phật dưới chân là
bờ Giác, ông ung dung giữa chốn nhiệm màu.
“Vào cửa từ bi, hoằng dương Phật đạo phương giải
thoát,
Qua bờ giác ngộ, tịnh cảnh Như lai pháp nhiệm màu.”
Và đời sau đang đề trên bia đá tặng cho ông.
Ảnh mộ ngài Võ Kim Bảng Từ Hạnh Tiên Sanh |
ĐỜI
THỨ HAI
CON
ÔNG VÕ VĂN NHÂN
Ngài làm quan thời Chúa Nguyễn được phong
đến chức Dực Nghĩa Hầu Đô Sứ, chiêu tập nhân dân vùng Nghệ An theo ngài vào Đàng
Trong khai khẩn đất hoang. Sau ngài cáo quan về khẩn đất lập vườn, canh ruộng,
an phận nuôi dạy cháu con.
Ông bà sanh hạ:
1/ Ngài Võ Công Đạt
2/ Ngài Võ Văn Thông
Ngài qua đời
năm 72 tuổi, mộ ông táng tại xứ Tràm. Đến năm 1995 con cháu kẻ trong nước người
nước ngoài cùng chung nhau trùng tu, xây dựng lại khang trang mỹ mãn.
Kỵ ông bà
theo xuân thu quý tiết của tộc tại từ đường.
Con cháu của
ngài lưu hậu khá đông, tuy có sa sút do chiến tranh, nhưng cũng lắm người học
hành đỗ đạt. Hiện nay, một số vẫn ở lại với quê cảnh ruộng nương lam lũ gìn giữ
mồ mả tổ tiên, một số khác vào miền Nam lập nghiệp và một số ít định cư
nơi hải ngoại.
Bà mất năm nào không rõ, mộ bà
táng bên cạnh mộ ông, mới trùng tu năm 2003.
Mộ ngài Võ Viết Phú |
ĐỜI THỨ HAI
CON ÔNG VÕ VĂN NHÂN
Ông bà Nhuận
sanh hạ con cháu bao nhiêu người không ai biết rõ, theo bản phó ý soạn năm Nhâm
Thân (1872) thì kế đời ông là lục đại tổ, nhưng ngài Võ Đức Thắng và ngài Võ
Đức Du chỉ mới ở hàng ngũ đại tổ, do đó ngài Thắng và ngài Du là hàng cháu nội.
Tư liệu cũ
có ghi và truyền miệng rằng: “Khi ngài Đức Nhuận qua đời, không con nối nghiệp
nên thân tộc đã sắp đặt con ngài Võ Văn
Thông, quý tôn của ngài Võ Viết Phú là ngài Đức Thắng, ngài Đức Thuận, ngài
Đức Hòa và ngài Đức Du đứng thừa tự kế thế dĩ hạ tại đệ nhị phái”.
Mộ ông nằm cạnh mộ anh ruột Dực Nghĩa Hầu Đô Sứ
Võ Viết Phú tại Xứ Tràm. Năm 1995 con cháu cả tộc trùng tu xây dựng; còn mộ bà
về sau thất lạc.
Mộ
Ngài Võ Đức Nhuận
|
ĐỜI THỨ BA
(lục đại tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC BẢNG
NGÀI VÕ VĂN
THANH B. KHUYẾT DANH
Ngài
sanh hạ:
1/ Võ
Văn Quý 武文贵
2/ Võ
Văn Thạnh 武文盛
3/ Võ
Văn Lý 武文里
4/ Võ
Văn Định 武文定
5/ Võ
Văn Chiểu 武文沼
6/ Võ
Văn Bình 武文平
ĐỜI THỨ BA
(lục đại tổ)
CON
ÔNG VÕ VIẾT PHÚ
Ngài
sanh hạ:
1/ Võ
Viết Khương 武曰羌
2/ Võ Viết Ninh 武曰宁
3/ Võ
Văn Minh 武文明
4/ Võ
Thị Phái
ĐỜI THỨ BA
(lục đại tổ)
CON
ÔNG VÕ VIẾT PHÚ
Ngài
sanh hạ:
1/ Võ
Đức Thắng 武德胜
2/ Võ
Đức Thuận 武德顺
3/ Võ Đức
Hòa 武德和
4/ Võ
Đức Du 武德攸
CÁC
NGÀI THUỘC NGŨ ĐẠI TỔ:
PHÁI I
-
VÕ VIẾT QUÝ
-
VÕ VIẾT THẠNH
-
VÕ VĂN LÝ
-
VÕ VĂN ĐỊNH
-
VÕ VĂN CHIỂU
-
VÕ VĂN BÌNH
-
VÕ VIẾT KHƯƠNG
-
VÕ VĂN NINH
-
VÕ VĂN MINH
PHÁI II
-
VÕ ĐỨC THẮNG
-
VÕ VĂN KẾ
-
VÕ VĂN NĂNG
-
VÕ ĐỨC THUẬN
-
VÕ ĐỨC HÒA
- VÕ ĐỨC DU
Mộ
Cao Cao Cao Tổ Phái II
|
CHI ÔNG VÕ ĐỨC THẮNG
ĐỜI
THỨ TƯ
(ngũ đại tổ)
CHÁU ÔNG VÕ ĐỨC NHUẬN
Sanh hạ:
1/ Võ Đức
Hạnh (武德幸)
(I)
2/ Võ Đức
Tài (武德才) (II)
ĐỜI THỨ NĂM
(cao tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC THẮNG (I)
Sanh hạ:
1/ Võ Đức
Thành (武德成)
2/ Võ Đức
Tấn (武德进)
3/ Võ Đức
Lộc (武德禄)
4/ Võ Văn
Tú (武德秀)
ĐỜI THỨ NĂM
(cao tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC THẮNG (II)
Sanh hạ:
1/ Võ Văn
Có (武文固)
ĐỜI THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC HẠNH
Sanh hạ:
1/ Võ Văn
Chợ
ĐỜI THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC HẠNH
Ô.
VÕ ĐỨC TẤN
武德进
|
B.
KHUYẾT DANH
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Sỹ
ĐỜI
THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC TÀI
Ô.
VÕ ĐỨC CÓ
武德固
|
KHUYẾT
DANH
|
Sanh hạ:
1/ Võ Văn
Kỵ (武文忌)
(vô tự)
ĐỜI THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC THÀNH
Ô.
VÕ VĂN CHỢ
武文....
Mộ
tại . . . . . . . . . . ..
|
B.
KHUYẾT DANH
|
Sanh hạ:
1/ Võ Văn
Chim
ĐỜI THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC TẤN
Ô.
VÕ ĐỨC SỸ
武德仕
|
B.
NGUYỄN THỊ DƯƠNG
阮氏扬
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Hóa (*)
2/ Võ Văn
Hống (**)
ĐỜI THỨ TÁM
(hiển, bá, thúc khảo)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC CHỢ
Ô.
VÕ VĂN CHIM
武文占
|
B.
CAO THỊ MƯU
高氏谋
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Quyền
2/ Võ Văn
Hành
3/ Võ Văn
Hạ
ĐỜI THỨ TÁM
(hiển, bá, thúc khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC SỸ (*)
Ô.
VÕ VĂN HÓA
武文化
|
B.
NGUYỄN THỊ CỦA
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Thức
2/ Võ Văn
Lôn
ĐỜI THỨ TÁM
(hiển, bá, thúc khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC SỸ (**)
Ô.
VÕ VĂN HỐNG
武文吼
|
B.
CAO THỊ TIỆN
高氏便
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Ngõa
ĐỜI THỨ CHÍN
(nhất thế đại)
CON ÔNG VÕ ĐỨC CHIM
Ô.
VÕ VĂN QUYỀN
武文卷
|
B.
LÊ THỊ MÀ
刘氏麻
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Chấp
(vô tự)
ĐỜI THỨ CHÍN
(nhất thế đại)
CON ÔNG VÕ VĂN HÓA
Ô.
VÕ VĂN LÔN
武文仑
|
B.
CAO THỊ ĐẠT
高氏达
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Xe
2/ Võ Văn
Khuê
3/ Võ Thị
Đá
4/ Võ Văn
Cảo
ĐỜI THỨ CHÍN
(nhất thế đại)
CON ÔNG VÕ VĂN HỐNG
Ô.
VÕ VĂN NGÕA
武文瓦
|
B.
VÕ THỊ ĐẾN
武氏淟
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Vày
2/ Võ Thị Hợi
3/ Võ Thị Tào
ĐỜI THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ VĂN LÔN
Ô.
VÕ VĂN CẢO
武文杲.
|
B.
NGUYỄN THỊ DÓM
阮氏肛
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Mùi
2/ Võ Văn
Cải
3/ Võ Văn
Được
4/ Võ Vô
danh
5/ Võ Thị Cái (Hết hậu)
ĐỜI THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ VĂN NGÕA
Ô.
VÕ VĂN VÀY
武文撝
Sanh năm . . . . ..
mất .
Mộ tại . . . . . . . . . ..
Giỗ ngày . . . . . . . . .
|
B.
CAO THỊ NHỰT
高氏日
Sanh năm . . . . ..
mất . . . . .
Mộ tại . . . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày . . . . . . . .
. . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Tập
2/ Võ Thị
Lan
3/ Võ Thị
Thuyền
4/ Võ Văn
Phạp
5/ Võ Văn
Nhâm
ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT
( nội tôn )
CON ÔNG VÕ VĂN VÀY
Ô.
VÕ VĂN TẬP
武文集
Sanh năm . . . . ..
mất . . .
Mộ tại . . . . . . . . .. . . . .
Giỗ ngày . . . . . . . . .
.
|
B.
KHUYẾT DANH
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Hội
2/ Võ Văn
Ngộ
3/ Võ Thị
........
4/ Võ Văn
Mùi
5/ Võ Vô
danh
(vô tự)
ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT
( nội tôn )
CON ÔNG VÕ VĂN VÀY
Ô.
VÕ VĂN NHÂM
武文任
Sanh năm . . . . ..
mất . . . . .
Mộ tại . . . .. . . . . . . . . . .
Giỗ ngày . . . . . . . . .
. . . .
|
B.
LÊ THỊ THÂM
黎氏深
Sanh năm . . . . ..
mất . . . . .
Mộ tại . . . . . . . . . . . . .. . . .
Giỗ ngày . . . . . . . . .
. . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị Diễn
2/ Võ Thị Phụng
3/ Võ Thị Thất
4/ Võ Văn
Thân
5/ Võ Vô
danh
6/ Võ Văn
Cữu
7/ Võ Thị Đợi
(vô tự ?)
* Bà Võ Thị Diễn, có chồng người
họ . . . . . . . . . . . làng . . . . . . .
. sanh . . . . con, gia đình sanh
sống tại . . . . . . . . . . . . . . .
* Bà Võ Thị Phụng, có chồng người
họ . . . . . . . . . . . làng . . . . . . .
sanh . . . . con, gia đình sanh sống tại . . . . . . . . . . . . . . .
* Bà Võ Thị Thất, có chồng người
họ . . . . . . . . . . . làng . . . . .
sanh . . . . con, gia đình sanh
sống tại . . . . . .
* Bà Võ Thị Đợi, có chồng người
họ . . . . . . . . . . . làng . . . . ...
sanh . . . . con, gia đình sanh
sống tại . . . . . . . . . . . .
(hết phần ông Đức Thắng)
CHI ÔNG VÕ ĐỨC NHUẬN
ĐỜI
THỨ TƯ
(ngũ đại tổ)
CHÁU ÔNG VÕ ĐỨC NHUẬN
1/ Ô. VÕ ĐỨC KẾ
武德继
|
2/ Ô. VÕ ĐỨC NĂNG
武德能
|
ĐỜI
THỨ TƯ
(ngũ đại tổ)
CHÁU ÔNG VÕ ĐỨC NHUẬN
3/Ô.
VÕ ĐỨC THUẬN
武德顺
|
B.
PHAN THỊ MẦU
潘氏牟
|
Sanh hạ:
1/ Võ
Đức Đãng (武德宕)
2/ Võ Đức
Lương (武德良)
ĐỜI
THỨ NĂM
(cao tổ)
CON
ÔNG VÕ ĐỨC THẮNG
Ô.
VÕ ĐỨC ĐÃNG
武德宕
|
B.
LƯU THỊ BÁN
刘氏半
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Đức
Sơn (武德山)
2/ Võ Văn
Thạch
3/ Võ Văn
Hiệp
ĐỜI THỨ NĂM
(cao tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC THẮNG
Ô. VÕ ĐỨC LƯƠNG
武德良
|
B. TRẦN THỊ LAN
陈氏兰
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Diện (武文面)
2/ Võ Văn
Giao (武文交) vô hậu
ĐỜI THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC ĐÃNG
Ô. VÕ
ĐỨC SƠN
武德山
|
B.
NGUYỄN THỊ ĐẰNG
阮氏滕
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Chánh (武文政)
2/ Võ Văn
Huyên
3/ Võ Văn
Sa
4/ Võ Văn
Năng
5/ Võ Văn
Đơn
ĐỜI THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC LƯƠNG
Ô. VÕ ĐỨC DIỆN
武德面
Mộ tại . . . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày ……………
|
B. LÊ THỊ LIÊN
黎氏莲
Mộ tại . . . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ ày ………………
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Phiếm (Ký) (武文汜)
2/ Võ Văn
Hay (武文台) vô hậu
3/ Võ Văn
Trang (武文庄) vô
hậu
4/ Võ Văn
Nghiêm (武文严)
5/ Võ Thị
Trú (武氏注)
ĐỜI THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC SƠN
Ô. VÕ
VĂN ĐƠN
武德单
|
B.
TRẦN THỊ LÝ
陈氏俚
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Tiên
2/ Võ Văn
Soan
3/ Võ Văn
Để
ĐỜI THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON ÔNG VÕ VĂN DIỆN
Ô.
VÕ ĐỨC PHIẾM
武德汜
Mộ tại . . .
. . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày :……
|
B. LÊ THỊ THIỆT
黎氏舌
B. VÕ THỊ TÚC
武氏足
Mộ tại . . . . . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Ký (武文既)
2/ Võ Văn
Túc (?) (武文夙) vô hậu
ĐỜI THỨ TÁM
(hiển, bá, thúc khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC ĐƠN
Ô. VÕ VĂN TIÊN
武德先
|
B.
KHUYẾT DANH
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Ai
(hết hậu)
ĐỜI THỨ TÁM
(hiển khảo)
CON ÔNG VÕ VĂN PHIẾM
Ô.
VÕ VĂN KÝ
武文既
Mộ tại . . . . . . . . . . .. . .
Giỗ ngày ………………
|
B. KHUYẾT
DANH
Mộ tại . . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày ………
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Mậu (武文茂)
ĐỜI THỨ CHÍN
CON ÔNG VÕ VĂN KÝ
Ô.
VÕ VĂN MẬU
武文茂
Mộ tại chưa rõ
Giỗ ngày mùng 9 tháng 4 âm lịch
|
B.
CAO THỊ VĂN
高氏闻
Mộ tại chưa rõ
Giỗ ngày mùng 9 tháng 4 âm lịch
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị
Thấy
2/ Võ Thị
Triết
3/ Võ Thị
Gần
4/ Võ Văn
Đề
ĐỜI THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ VĂN MẬU
Ô.
VÕ VĂN ĐỀ
武文提
Năm sanh, mất, mộ không rõ
Mộ tại rẫy ông Yên
Giỗ hội ngày 13 tháng 6 âm
lịch
|
B.
PHẠM THỊ XƯƠNG
范氏昌
Năm sanh, mất, mộ không rõ
B.
ĐẶNG THỊ QUYÊN
邓氏蠲
Năm mất không rõ, mộ tại
Tràm
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Thiếu
2/ Võ Văn
Phụng
3/ Võ Thị
Thỉ
4/ Võ Văn
Đốc
5/ Võ Văn
Bồi
6/ Võ vô
danh
7/ Võ Văn
Mót
Mộ
ông
|
CON ÔNG VÕ VĂN ĐỀ
Ô.
VÕ VĂN THIẾU
武文少
ÔNG ĐA
Mộ tại gò Tràm
Giỗ ngày 13 tháng 6 âm lịch
|
B.
TRẦN THỊ THUYỀN
陈氏船
Mộ tại gò Tràm
Giỗ ngày 13 tháng 6 âm lịch
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị Đậu
2/ Võ Văn
Đa
3/ Võ Văn
Đoan
4/ Võ Văn
Định
5/ Võ Văn
Đô
ĐỜI THỨ MƯỜI HAI
CON ÔNG VÕ VĂN THIỂU
Ô.
VÕ VĂN ĐÔ
武文都
Sanh năm 1906, mất 2000
Mộ tại gò Tràm
Giỗ ngày mùng 3 tháng chạp
|
B.
TRẦN THỊ VINH
陈氏荣
Sanh năm 1906, mất 1969
Mộ tại gò Tràm
Giỗ ngày 20 tháng giêng
|
Ông Võ Văn Đô tức ông Đốc,
tính tình hiền hậu; cưới bà Trần Thị Vinh người làng . . . . . . . . .
Sanh hạ:
1/ Võ Văn Triều (Đốc) sanh
năm 1940 hy sinh 1966
2/ Võ Thị
Học sanh
năm 1941
3/ Võ Thanh
Tơ sanh
năm 1943
4/ Võ vô
danh
5/ Võ Thị
Ấu sanh
năm 1946 chết
6/ Võ Văn
Bảy
sanh năm 1951 chết 1973
7/ Võ Văn
Tỵ sanh năm 1953 chết 1969
8/ Võ Văn
Mùi sanh
năm 1955
9/ Võ Thị Mười sanh
năm 1958
Ảnh ông Võ Văn Đô |
* Ông Võ Văn Triều tức Võ Văn Đốc, sanh năm 1940, đi
bộ đội, hy sinh năm 1966, ông chưa có vợ con. Mộ ông táng tại Xứ Tràm.
* Bà Võ Thị Học, có chồng họ Nguyễn, người làng An
Xuân, gia đình hiện sanh sống tại xã Phú Thọ, sanh được một gái.
* Bà Võ Thị Ấu chưa chồng bị giặc bắn chết trước nhà
năm 196…
* Ông Võ Văn Bảy đi dân quân địa phương, hy sinh năm
1973, chưa
vợ, chưa
con.
* Ông Võ Văn Tỵ cùng anh trai đi dân quân địa phương
hy sinh năm 1969.
* Bà Võ Thị Mười lấy chồng họ Trần làng Xuân Phước,
sanh một gái, gia đình hiện ở Xuân Phước.
Mộ
ông bà Đốc
|
ĐỜI THỨ MƯỜI BA
CON ÔNG VÕ VĂN ĐÔ
Ô.
VÕ THANH TƠ
武青丝
Sanh năm 1943
|
B.
LÊ THỊ PHÒNG
黎氏房
Sanh năm 1950
B.
LÊ THỊ KHANH
黎氏卿
Sanh năm 1956
|
Ảnh ông Võ Thanh Tơ |
Ông Võ Thanh Tơ, con trai ông Võ Văn Đô, ông đi bộ đội
bị bắt cầm tù tại Côn Đảo, năm 1972 trao trả về tại Lộc Ninh. Sau 1975 về chăm
bón ruộng vườn, lo báo đáp cha mẹ tuổi già.
Ông cưới bà Lê Thị Phòng người xã Quế
Phong, sanh được một trai và hai gái. Trong những ngày dao du việc làng việc xã
ông gá nghĩa với bà Lê Thị Khanh người làng Phước Chỉ, sanh một trai út ngoài
giá thú.
Sanh
hạ:
Dòng I
1/ Võ Thanh
Lương sanh năm 1978
2/ Võ Thị Kim
Thiện sanh năm 1980
3/ Võ Thị
Kim Thảo sanh năm 1989
Dòng
II
4/ Võ Hoàng
Huy Tâm sanh năm 1985
* Võ Thị Kim Thiện sanh năm 1980, có chồng họ Nguyễn,
người huyện Đại Lộc, gia đình hiện sanh sống tại quê chồng, sanh một trai một gái.
* Võ Thị Kim Thảo sanh năm 1989,có chồng họ . . . .
.người làng . . . . . . . . gia đình
hiện sanh sống tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
ĐỜI THỨ MƯỜI BA
CON ÔNG VÕ VĂN ĐÔ
Ô.
VÕ VĂN MÙI
武文未
Sanh năm 1956
|
B.
CAO THỊ HOA
高氏花
Sanh năm 1957
|
Ảnh ông Võ Văn Mùi |
Ông Võ Văn Mùi, con trai thứ của ông Võ Văn Đô, đảng
viên Đảng Cộng Sản. Ông cưới bà Cao Thị Hoa người xã Phú Thọ, sanh được hai
trai và ba gái.
Ông là một hậu duệ có tâm với tộc họ, trong thời gian
xây dựng nhà thờ tộc ông đã thường trực tại công trình gần tám tháng.
Gia đình làm
nông, nhà tại xã Phú Thọ, riêng ông đang tham gia trong chính quyền địa phương.
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị
Phương Thất lộc
2/ Võ Thị
Vân sanh năm 1983
3/ Võ Thị Lợi sanh
năm 1986
4/ Võ Văn
Danh sanh năm 1989
5/ Võ Văn
Vọng sanh năm 1997
* Võ Thị vân sanh năm 1983,có chồng họ Phạm, người làng
Nam Tân, gia đình hiện sanh sống tại quê chồng, sanh một trai một gái.
* Võ Thị Lợi sanh năm 1987, có chồng họ Nguyễn, người
Quảng Ngãi, gia đình hiện sanh sống tại Quảng Ngãi, sanh một trai.
ĐỜI
THỨ
MƯỜI BỐN
CON ÔNG VÕ VĂN TƠ
VÕ THANH LƯƠNG
Sanh năm 1978
|
NGUYỄN THỊ BÉ
Sanh năm 1979
|
Võ Văn Lương là trưởng nam của ông Võ Văn Tơ, cưới
Nguyễn Thị Bé người làng Đông Phú, xã Quế Châu. Gia đình sinh sống tại thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam .
Chồng làm công nhân, vợ làm KCS tại xí nghiệp may Tuấn
Đạt, Tam Kỳ.
Sanh các con:
1/ Võ Nguyễn Mỹ Duyên sanh năm 2007
2/ Võ Nguyễn Bảo Ngọc sanh năm 2012
ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN
CON ÔNG VÕ VĂN TƠ
VÕ HOÀNG HUY TÂM
Sanh năm 1978
|
PHAN THỊ MAI
Sanh năm 1985
|
Võ Hoàng Huy Tâm là thứ nam của ông Võ Văn Tơ và bà Lê
Thị Khanh, cưới Phan Thị Mai người Hà
Tỉnh. Gia đình sinh sống tại xã Sông Xoài, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu.
Sanh
hạ:
1/ Võ . .
. . . . . . . .. . sanh năm 19.....
2/ Võ . .
. . . . . . . .. . sanh năm 19.....
ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN
CON ÔNG VÕ VĂN MÙI
Ô.
VÕ VĂN DANH
Sanh năm 1989
|
B.
NGUYỄN THỊ BÍCH
Sanh năm 1989
|
Võ Văn Danh là con trai của ông Võ Văn Mùi và bà Cao
Thị Hoa, cưới Nguyễn Thị Bích người tỉnh Ninh Thuận. Gia đình sinh sống
tại thành phố Hồ Chí Minh.
Sanh hạ:
1/ Võ ......................... sanh năm 20......
CHI ÔNG VÕ ĐỨC HÒA
ĐỜI THỨ TƯ
(ngũ đại tổ)
CHÁU ÔNG VÕ ĐỨC NHUẬN
2. Ô. VÕ ĐỨC HÒA
武德和
Đạo hiệu HUYỀN THÁI
Thụy
NGỘ PHƯỚC TIÊN SINH
|
B. PHẠM THỊ THAI
范氏台
|
Ngài Võ Đức Hòa, cùng đời với ngài Đức Thắng, ngài Đức
Du theo như bản phó ý cầu siêu soạn ngày 12 tháng 6 năm Nhâm Thân, đối chiếu
với Tây lịch nhằm ngày 17 tháng 7 năm 1872. Ông đã có vợ sanh con và cuối đời
tu hành Phật Đạo. Ông lấy đạo hiệu là Huyền Thái, thụy là Ngộ Phước Tiên sanh.
Sanh hạ:
1/ Võ Đức
Lợi (武德利)
2/ Võ Công
Khoa (武公科)cao tổ bá nhị
lang, vô tự
* Võ Văn Xứng (武文秤)
* Võ Đức
Đạo (武德道)cao tổ thúc nhất lang, tướng thần tử trận. Các ông là huynh đệ
thúc bá đồng đường, của ông Võ Đức Lợi và Võ Công Khoa.
ĐỜI
THỨ NĂM
(cao tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC HÒA
Ô.
VÕ ĐỨC XỨNG
武德秤
ÔNG KHOA (科)
|
B. LÊ THỊ KÝ
黎氏既
|
Trong Phó Ý chỉ ghi ông Võ Đức Khoa là anh của ông Võ Đức Lợi, có thể do chữ
Khoa và chữ Xứng gần giống nên hai tên nhưng chỉ một ông.
Sanh
hạ:
1/ Võ
Văn Ký (武文既)
vô
tự
ĐỜI
THỨ NĂM
(cao tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC HÒA
Ô.
VÕ ĐỨC LỢI
武德利
|
B. NGUYỄN THỊ VẬT
阮氏勿
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Đức
Cạnh (武德竞)
2/ Võ Đức Chủng (武德种)
3/ Võ Đức Giá (武德稼)
ĐỜI
THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC LỢI
Ô.
VÕ ĐỨC CHỦNG
武德种
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ
ngày 20 tháng giêng
|
B. NGUYỄN THỊ KHÁNG
阮氏肴(Hào)
B. NGUYỄN THỊ TRA
阮氏查
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Giỗ
ngày 20 tháng giêng
|
Sanh
hạ:
1/ Võ
Văn Dưỡng (武文养)
2/ Võ Văn Hàng (武德种)
3/ Võ Văn Lồn Vô tự
4/ Võ Văn Du Vô tự
5/ Võ Đức Phước Vô tự
ĐỜI
THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC CHỦNG
Ô.
VÕ VĂN DƯỠNG
武文养
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . .
|
B. ĐOÀN THỊ THÂN
阮氏身
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Trinh (武文侦)
ĐỜI
THỨ SÁU
(tằng tổ)
CON ÔNG VÕ ĐỨC LỢI
Ô.
VÕ ĐỨC GIÁ
武德稼
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . . .
|
B. KHUYẾT DANH
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Di (武文移)
2/ Võ Thị Lư (武氏榈)
ĐỜI
THỨ BẢY
(tổ khảo)
CON ÔNG VÕ ĐỨC GIÁ
Ô.
VÕ VĂN DI
武文移
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . .
|
B. LÊ THỊ DỤ
黎氏诱
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Trì (武文持)
2/ Võ Văn Ấn (武文印)
3/ Võ Văn Thắng (武文胜)
ĐỜI
THỨ TÁM
CON ÔNG VÕ VĂN DI
Ô.
VÕ VĂN TRÌ
武文持
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . . . .
|
B.
LÊ THỊ .....
阮氏
Mộ tại . . .
. . . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Niệm
ĐỜI
THỨ CHÍN
CON ÔNG VÕ VĂN TRÌ
Ô.
VÕ VĂN NIỆM
武文念
Mộ
tại . . . . . . . . . . . . . . . .
|
B.
NGUYỄN THỊ HOAN 阮氏欢
Mộ tại . . .
. . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn
Khiết
2/ Võ Văn
Phối
3/ Võ Văn
Vĩnh
4/ Võ Văn
Thường
ĐỜI
THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ VĂN NIỆM
Ô.
VÕ VĂN KHIẾT
武文契
Mộ tại
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
|
B.
ĐỖ THỊ HỬ
杜氏诩
Mộ tại
. . . . . . . . . . . . .
|
Sanh
hạ: ( Vô tự )
ĐỜI
THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ VĂN NIỆM
Ô.
VÕ VĂN PHỐI
武文配
Mộ tại . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày . . . . . . . . .
. . . .
|
B. KHUYẾT DANH
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Văn Hiến
ĐỜI
THỨ MƯỜI
CON ÔNG VÕ ĐỨC NIỆM
Ô.
VÕ VĂN VĨNH
武文永
Mộ tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ theo tộc ngày 20 tháng giêng
|
B.
VÕ THỊ CẤN
武氏艮
Mộ tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Giỗ ngày 20 tháng giêng
|
Sanh
hạ:
1/ Võ
Văn Thẹp
2/ Võ
Văn Trà
3/ Võ
Văn Lặt
ĐỜI
THỨ MƯỜI MỘT
CON ÔNG VÕ VĂN PHỐI
Ô.
VÕ VĂN HIẾN
ÔNG TỬU
武文宪
Mộ tại núi Kỳ Sơn, huyện Tam Kỳ
Giỗ ngày . . . . . . . . . . . . .
|
B.
BÙI THỊ BẬN
裴氏绊
Mộ tại Rừng Làng
Giỗ ngày . . . . . . . . . . . . .
|
Ông tánh tình hiền hậu, ai cũng mến thương, nhà nghèo.
Sau đi vào núi Kỳ Sơn kéo gỗ làm che, đêm nghỉ tại núi, đang lúc mọi người ngủ,
ông ngồi chất lửa sưởi ấm bị cọp rình bắt.
Giữa núi rừng hoang vu, đêm đen mịt mờ, ông đối mặt
với hung thần và cái chết. Ai thấy được nỗi đớn đau khi thịt da xé toạt, chẳng
biết kêu ai khi trời cũng vô tình không cứu.
Ông chết, đống xương vung vãi sau nhiều ngày tìm được,
phần mất phần còn, những gì tìm thấy gôm lại và đắp thành mộ nhưng, cũng chỉ
một nấm đất đơn sơ không bia ghi khắc tuổi tên. Gần thế kỷ trôi qua, xói mòn,
nấm mồ xưa còn mất mấy ai hay. Chướng nghiệp khắc khe, hờn trách ai! Con cháu
ông trưởng thành rồi tuổi già, ray rức, nắm xương vẫn chưa đem về xây mộ ở quê
nhà.
Sanh hạ:
1/ Võ Văn Tửu
2/ Võ Văn
Trà chết
sớm
3/ Võ Văn
Pha
*
ông Võ Văn Trà chết sớm, chưa vợ, mộ tại Rừng Làng.
ĐỜI
THỨ MƯỜI HAI
CON ÔNG VÕ VĂN HIẾN
Ô.
VÕ VĂN TỬU
武文酒
Sanh năm . . . . ..
mất . . . . .
Mộ tại Lò Thổi
Giỗ ngày . . . . . . . . .
. . . .
|
B.
TRẦN THỊ ĐỂ
陈氏抵
Sanh năm . . . . ..
mất . . . . .
Mộ tại Rừng Làng
Giỗ ngày . . . . . . . . .
. . . .
|
Ông Tửu giống cha bổn tánh hiền lương,
kết hôn với bà Trần Thị Để người cùng làng, sanh được bốn người con trai nhưng
hai người sau chết sớm.
Sanh hạ:
1/ Võ Văn Sắc
2/ Võ Văn
Tây (thất lộc)
3/ Võ vô
danh
4/ Võ Văn
Tào
5/ Võ Văn
Khang (thất lộc)
ĐỜI
THỨ MƯỜI BA
CON
ÔNG VÕ ĐỨC TỬU
Ô.
VÕ VĂN SẮC
武文色
Sanh
năm 1927, mất 2000
Mộ tại Rừng Làng
Giỗ
ngày . . . . . . . . . . . . .
|
B.
ĐỖ THỊ MƯỜI
杜氏迈
Sanh
năm 1928
|
Ông Võ Văn Sắc, anh em với ông Võ Văn Tào, sanh ra
trong cảnh nhà nghèo, chinh chiến. Tuy học ít nhưng biết tìm tòi nên rất thông
việc ở đời, văn hay chữ đẹp, Năm 1946-1954 tham gia phong trào Việt Minh kháng
chiến. Sau năm 1954 chính quyền Sài Gòn truy bắt, ông trốn ra ở Chợ Tổng,
huyện Điện Bàn, cưới vợ người tại đó.
Chẳng bao lâu ông tham gia Quốc Dân Đảng; năm 1975 bị tập trung cải tạo tại An
Điềm hơn một năm. Ông bà lập nghiệp tại quê vợ, chết năm 2000, vợ con đưa về
táng tại Rừng Làng
Ảnh ông Võ Văn Sắc |
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị
Anh sanh năm 19 ....
2/ Võ Thị
Hạnh sanh năm 19 ....
3/ Võ Thị
Tuyết sanh năm 19 ....
4/ Võ Thị
Khánh sanh năm 19 ....
* Bà Võ Thị Anh, có chồng, gia đình sanh sống tại Chợ Tổng.
* Bà Võ Thị Hạnh, có chồng, gia đình sanh sống tại Điện Bàn.
* Bà Võ Thị Tuyết, có chồng người họ ……. làng …………..
* Bà Võ Thị Khánh, có chồng người họ ……làng …………. .
ĐỜI
THỨ MƯỜI BA
CON ÔNG VÕ TỬU
Ô.
VÕ VĂN TÀO
武文曹
Sanh năm 1932
|
B.
CAO THỊ SUNG
高氏充
Sanh năm 1931
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị
Hồng sanh năm 1955
2/ Võ Thị
Nhỏ (thất lộc)
3/ Võ văn
Bốn (thất lộc)
4/ Võ Văn
Chút (thất lộc)
5-6-7/ Võ vô danh
8/ Võ Văn Bình sanh năm 1977
Ảnh bà Cao Thị Sung và ông Võ Văn Tào
* Bà Võ Thị Hồng, không có chồng nhưng có
một con trai, hiện nhà ở gần cha mẹ.
ĐỜI
THỨ MƯỜI
BỐN
CON ÔNG VÕ TÀO
Ô.
VÕ VĂN BÌNH
武文平
Sanh
năm 1977
|
B.NGUYỄN
THỊ LỢI
阮氏利
Sanh
năm 1978
|
Sanh
hạ:
1/ Võ Thị
Thúy Uyên sanh năm 2001
2/ Võ
Nguyễn Thanh Thiên sanh năm 2006