Gia Phả Trần Công (Phần 2)

GIA PHẢ

TRẦN CÔNG
(Phần 2) 



Cháu con Trần Công Tộc chưa dám nói mình là giọt máu rơi của 400 năm xưa Trần Triều Hoàng Đế, nhưng phải khẳng định rằng cốt nhục của Trần Công trên đất Thăng Long và âm hưởng công hầu đích thực tại tổng Thanh Châu. Giấc mơ nối lại cội nguồn không thể nào không có. Điều ghi lại cần nhiều chính xác nhưng dòng suy nghĩ như có một sự sai khiến từ trong cõi huyền vi bảo cháu con phải đi tìm dòng máu của chính mình ở nơi đâu có vết tích tộc Trần. Một thời vẻ vang của tiên đế, vua quan nhà Trần đã thành dấu ấn lịch sử thế giới. Thành Cát Tư Hãn liệt oanh đã làm bá chủ một phần thế giới nhưng trước uy phong của Trần Triều phải dừng chân, quay ngựa rút quân về. Lịch sử Trần đã để lại cho trăm họ đời đời bái vọng, con cháu ta Trần Tộc cung nghinh vọng niệm là việc nên làm.

Giấc mơ nào không có sự mơ hồ và từ đó mới có thể tìm thấy những gì cần tìm thấy. Do đó, ta có quyền mơ hồ để có được giấc mơ ngàn năm chưa gặp, để thấy được Tộc Trần lớp lớp hội ngộ với xa xưa.
Mọi suy nghĩ còn trong đợi chờ và hy vọng. Làng Thanh Châu, Tổng Thanh Châu, Huyện Hòa Vang, Phủ Điện Bàn, nay là Cẩm Thanh – Cẩm Châu , thành phố Hội An vẫn là nơi bắt đầu của Gia Phả Trần Công Tộc.


“Thượng Niệm Bổn Âm Đường Thượng
Trần Công Môn Dĩnh Xuyên Quận,
Tiên Viễn Lịch Đợi Quá Cố Chư Tiên Linh Vị Tiền”



(Trích theo bút đề đầu bản gia phả sao chép bằng Hán Nôm)



TỔ CÔNG
THUỶ TỔ TRẦN CÔNG TỘC THANH CHÂU


 ------------------------------------------------------------------------

TRẦN QUÝ CÔNG


Mộ Thuỷ Tổ Trần Công

Mộ Tổ Công Trần Công an tán tại xứ Bàu Đà, làng Thanh Tây trong khuôn viên trường Trần Hưng Đạo, đội 9 Thanh Tây, Cẩm Châu thị xã Hội An. Mộ có bia đá, thành quách xây bằng hổn hợp ngao hến nung trộn với nước mật đường và keo thực vật còn gọi là ma gzút hay vôi bồ ghè. Mô bà chưa tìm thấy. 

SANH HẠ 

Tổ ông : TRẦN CÔNG PHẠP


 ĐỜI THỨ  II

Tổ công: TRẦN CÔNG PHẠP 
       公    乏   
Hiệu: THỤC TÚC 


  

Mộ ông tán tại xứ Trà Quân, làng Thanh Châu Đông, Thôn 5 Cẩm Thanh, Thị xã Hội An. Mộ có cấu trúc bằng hổn hợp vôi bồ ghè (ma gút). Mộ Bà chưa tìm thấy. 

SANH HẠ
Tổ Công: TRẦN CÔNG CHỬNG (CHUẨN)
Tổ Công: TRẦN CÔNG CHUỘT  (THUẬT)
Tổ Công: TRẦN CÔNG DỰC      (DỰ)





ĐỜI THỨ  III   -   PHÁI  1

Tổ công bá phủ: TRẦN CÔNG CHỬNG 
陳      公      拯
Tổ mẫu:                         PHẠM THỊ MỘT (MẠT)
笵   氏    沒

 
Kỵ giổ ông ngày 21 tháng giêng âm lịch Kỵ giổ bà ngày 23 tháng 9 âm lịch

Song mộ ông bà an tán tại Thanh Tây, sát tường rào Trường Trần Hưng Đạo, đội 9 Thanh Tây, Cẩm Châu bên lề tỉnh lộ từ hội an đi Cửa Đại phía tay trái mộ có cấu trúc hình chủ nhật bằng hổn hợp ma giút  cổ kính. 

Sanh hạ
Tổ Công Bá Phủ:
1. TRẦN CÔNG LINH
2. TRẦN CÔNG NGHỊ
Tổ Công Trọng Phủ:
3. TRẦN CÔNG LỢI
4. TRẦN CÔNG LEO (LÀNH)
Tổ Công Thúc Phủ:
5. TRẦN CÔNG TRÈO (PHEO)
Tổ Công Quý Nương:
6. TRẦN THỊ MÍCH
7. TRẦN THỊ PHẨM
8. TRẦN THỊ HÂN
9. TRẦN THỊ CHỨC (LỆ) 

* Ông Trần Công Pheo (Ông Trèo) hiện chưa tìm ra ông ở tộc phái nào, ở đâu?
  
 Nhà thờ Tộc Trần Công tại Cẩm Châu  Hội An–Quảng Nam 


ĐỜI THỨ III 
Tổ công bá phủ: 
TRẦN CÔNG CHUỘT (THUẬT) 
陳       公       贖 
 
Sanh hạ
Tổ công bá phủ:TRẦN CÔNG GIẢN (Y)
Sanh hạ
Tổ Công Quý Nương:

ĐỜI THỨ IV: 
1. TRẦN THỊ Y
2. TRẦN THỊ CUỐC 
Mồ mã các ông chưa xác định ở đâu.
Tổ Công bá Phủ đời III, không sanh hạ nam tử nên quy lai nội đồng tự tôn đường Trần Công Tộc.
Các bà cao đời xuất giá về tộc họ nào, ở đâu nên không biết con cháu chắc của các bà là ai. Nếu các cháu ngoại Trần Công Tộc tìm về tộc họ đúng tôn tính sẽ đưa vào trong ngoại phả để đời sau nhớ về dòng máu mẹ. 


Người xưa dùng từ bá phủ để chỉ người con thứ nhất và nhì trong phủ để chỉ người con thứ ba và tư Thúc phủ để chỉ người con thứ năm và sáu Quý phủ để chỉ người con thứ bảy trở đi các bà đều là quý nương không theo thứ tự. Theo sách xưa ma nghiêu có 8 người con là 1. Bá Đạt, 2. Bá Quát, 3. Trọng Đột, 4. Trọng Hốt, 5. Thúc Hạ, 6. Thúc Dạ, 7. Quý Thuỳ, 8. Quý Hoa – theo thứ tự đó gọi thứ của gia đình


ĐỜI THỨ III   -   PHÁI  2     

Tổ công trọng phủ: TRẦN CÔNG DỰC (DỰ) 
        


Sanh hạ
Tổ Công Bá Phủ:      
1. TRẦN CÔNG NÊN
2. TRẦN CÔNG TUẤN
3. TRẦN CÔNG CẨN




ĐỜI THỨ IV  -  PHÁI  1
Tổ công bá phủ: TRẦN CÔNG LINH
          






Sanh hạ

Tổ Cô Quý Nương :
1. TRẦN THỊ ĐÁ.
2. TRẦN THỊ LŨ.

Tổ công sanh hạ hai quý nương, không nam tử nên quy lai nội đồng tự tôn đường Trần Công Tộc. Các quy nương không rỏ xuất giá về đâu nên hậu duệ các quý nương là ai chưa được biết. Nếu các cháu ngoại nhiều đời của Trần Công Tộc tìm lại dòng máu mẹ sẽ bổ sung ở phần ngoại phả.


ĐỜI THỨ IV   -   PHÁI I   -   CHI  1





Tổ công bá phủ:  TRẦN CÔNG NGHỊ

     

Tước vị:    Đô Trưởng Nghị Luận Trần Hầu
Tổ mẫu:  HUỲNH THỊ RẰM.

   

  

Kỵ giổ ông ngày 6 tháng 3  âm lịch.

Kỵ giổ bà ngày mùng 4 tháng giêng âm lịch.
Mộ ông đối diện song mộ của Tổ Công Trần Công Chửng, trước mặt trường Trần Hưng Đạo, đội 9 Cẩm Châu. Cấu trúc bằng đá, thành quách xây bằng hổn hợp vôi bồ ghè, nấm hình lưng qui

Sanh hạ
Tổ công bá phủ:         
1. TRẦN CÔNG KỈNH.
2. TRẦN CÔNG THỨC.

Tổ Công Trọng Phủ
3. TRẦN CÔNG PHONG.
4. TRẦN CÔNG ĐÁO.
Tổ công thúc phủ:
5. TRẦN CÔNG THUẦN.
6. TRẦN CÔNG HUÂN.
Tổ côquý nương:
7. TRẦN THỊ TUYÊN.
8. TRẦN THỊ KẾ.
9. TRẦN THỊ CỦA.
10. TRẦN THỊ NHUẬN.
11. TRẦN THỊ DỄ
12. TRẦN THỊ CỐI.
13. TRẦN THỊ TRÁI.
14. TRẦN THỊ YẾN
Ngoài 2 Tổ Công Trần Công Kỉnh và Trần Công Thức, các ông, các bà không để lại thông tin nào trong gia phả. Do đó việc thân thế còn được chờ và qui lại đồng tự tại tông đường tổ tự.

  
 Mộ bà

ĐỜI THỨ IV   -  PHÁI I   -   CHI  2

Tổ công trọng phủ: TRẦN CÔNG LỢI
      
Hiệu:TẤN TÀI
Tước vị: TRI PHỦ HÀN LÂM LỤC HÀM
Tổ mẫu: PHẠM    THỊ   BẠN
          

  
 
Kỵ giổ ông ngày mùng 5 tháng 10  âm lịch.
Kỵ giổ bà ngày mùng 27 tháng 9 âm lịch.
Mộ ông qui trí tại rừng Thanh Tây phía đông bắc
Bia đá củ nằm phía trước, phía sau có dựng thêm bia xi măng (đầu nấm) mộ ông táng chân nằm về phía sông Đế Võng Cẩm An, hướng biển đông. Cấu trúc thành quách hình chữ nhật  bằng hổn hợp vôi bồ ghè.Mộ bà tọa lạc tại  phía  rừng Đuồi trước mặt lăng Trà Quân, thôn 5 Cẩm Thanh, bia đá Non nước. Trùng tu năm 1935 thành thành quách xây bằng gạch hình chữ nhật, tọa đoài hướng đông.

Sanh hạ
Tổ ông bá phủ:
1. TRẦN CÔNG THANH.
2.TRẦN CÔNG CHÂU 


ĐỜI IV - PHÁI I - CHI 3 -TRẦN VĂN TỘC – DUY NGHĨA



Tổ công trọng phủ: TRẦN CÔNG LEO
Tự:                                   TRẦN VĂN LÀNH

Khu mộ Tổ Trần Văn tại Duy Nghĩa

Mộ ông toạ thôn 1, xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên

Chi phái 3 của ông sanh hạ rất đông tại thôn 1, xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên. Thành lập tộc họ Trần tại Duy Hải (Duy Nghĩa cũ) và lấy theo tên cựu tộc là TRẦN VĂN.
Từ đường xây dựng 1996 ngày 23 tháng 10 – Bính Tý có hoành phi ghi “TRẦN TỪ ĐƯỜNG”, Khung chạm tứ linh đánh bóng chữ giả kim “đệ nhất phái đệ tứ chi” ở góc.
Đúng ra theo cách xắp xếp của phả hệ, giòng họ thì đời ông nào không có con cháu nội kế thế thờ tự thì phần thờ tự ở nhà thờ tộc chính và không có phân ở đó là chi, nên chữ đệ tứ chi phài ghi đệ tam chi trên hoành phi


ĐỜI THỨ IV  -  PHÁI II
 

CHI 1 -  TRẦN CÔNG TỘC HÀ QUẢNG - ĐIỆN DƯƠNG

Tổ công bá phủ:       TRẦN CÔNG NÊN (GIỎI) 

Nhà thờ Điện Dương
  


Sanh hạ
Tổ ông bá phủ:              1. TRẦN CÔNG BÁNH.
2. TRẦN CÔNG SIÊU (ĐOAN).

Ông Sanh hạ hậu duệ và lập thành tộc TRẦN CÔNG phái II ở thôn 5 Điện Dương, Điện Bàn, Quảng Nam


ĐỜI THỨ IV  - PHÁI II

CHI  2  -  TRẦN CÔNG TỘC   -    ĐIỆN DƯƠNG

Tổ công trọng phủ: TRẦN CÔNG CẨN

Tước vị: Hiền Hầu Đặc Trấn Chưởng Cơ Võ Dũng Phụ Quốc Oanh Liệt Trần Hầu Tướng Quân.


Mộ ông cấu trúc không khác các mộ và an táng tại Mỹ Khê Đà Năng. Ông được phong tăng là Hậu Hiền của làng Mỹ Khê. 

Khi tướng công đô đốc Trần Công Cẩn lãnh mệnh tải lương tiếp cho quân Bắc tiến của Quang Trung, cuộc hải hành gặp khi bão tố phải cập bờ tại cửa biển Mỹ Khê. Trong lúc đợi chờ biển lặng sóng yên ông thấy sông Hàn có nhiều thuận thế nên sai các tướng sĩ, ba quân lập ấp khẩn đất để đưa dân đến định cư. Và từ đó tướng công Trần Công Cẩn đã thành Hậu Hiền làng Mỹ Khê, công lao Trần tướng công to lớn nên dân làng tôn ông lên hàng đồng chư Tiền hiền.
Dấu xưa thành quách đã hoang sơ, dư ảnh công hầu đã nhạt mờ theo sóng lớp phế hưng, nhưng may thay uy danh của một công thần dòng họ Trần Công còn rực rỡ trên tấm bia đá giành lại công phẩm cho ngài. Những gì còn tiếp nối của ông cháu con không ai hay biết, hiền điệt của ông là ông Trần Văn Thiệt người lập bia cũng biền biệt nơi đâu.Tuy gia phả lu mờ nhưng tên tuổi và công danh của ông, ngôi đình Mỹ Khê còn tồn tại thì ông vẫn còn đó với dân đời đời.

Dấu chấm cuối cùng cháu con vẫn mãi mãi hoài nghi.

 
ĐỜI THỨ V  -  PHÁI I  -  CHI  1

Tổ ông bá phủ: TRẦN CÔNG KỈNH

              


Mộ ngài táng tại Đồng Lúc thôn 4 Cẩm Thanh, Hội An. Cấu trúc thành quách bằng hổn hợp ma giút hình chữ nhật bia đá cổ, nấm lưng qui. Tước vị có ghi nhưng thời gian làm lu mờ chưa đọc được.
                     
Sanh hạ

Tổ ông bá phủ :   
1. TRẦN     CÔNG     BỒI .
2. TRẦN CÔNG NGHIÊM .

Ông Trần Công Bồi trong gia phả không còn thông tin nên chờ đợi bổ sung trong phụ phả.
Mộ bà
 ĐỜI THỨ V  -  PHÁI I  -  CHI  1  -  NHÁNH 2 

Tổ ông bá phủ: TRẦN CÔNG THỨC
                                                                            
Tức vị:
Trấn Quốc Đại Tướng Quân
Trụ Quốc Đại Đô Đốc Tây Sơn Hoàng Triều Tri Quận Công
Trần Tướng Công.

Tổ mẫu:                  TRẦN THỊ LƯỚI.
                                       
Tước vị: Mạng Phụ Y Phu Đô Đốc Tri Quận Công Nương Nương.

Ông Sanh năm Ất tỵ (1725) mất năm Quý mão (1783) kỵ ông ngày 30 tháng 06 âm lịch, kỵ bà mùng 05 tháng giêng. Mộ ông bà cấu trúc hình chữ nhật, song mộ có 2 nấm hình lưng qui, thành quách xây bằng gạch xưa vữa vôi mật, mỗi nấm dựng 1 bia, đã trùng tu nhưng sau 2 cuộc chiến thành bị hư. Mộ an táng tại Rừng Rẫy thôn 5 Cẩm Thanh, Hội An.
 
    Sanh hạ
Tổ ông bá phủ : 
 1. TRẦN CÔNG THÀNH
2. TRẦN CÔNG THẠNH

Tổ ông trọng phủ:                
3. TRẦN CÔNG TRỊ         
4. TRẦN CÔNG MON   
Qui lai đồng tự từ đường

Tổ cô quý nương:
5. TRẦN THỊ TÍN  

Bà tổ cô quý nương Trần Thị Tín xuất giá về tộc họ nào gia phả không ghi rõ.


ĐỜI THỨ V   -   PHÁI I   -   CHI 1
 
Tổ ông trọng phủ:      TRẦN  CÔNG  PHONG
                                                          

 Sanh hạ
Tổ cô:
1. TRẦN THỊ TỨ.
2. TRẦN THỊ CUỘC.
Tổ ông:
3. TRẦN CÔNG ĐÌNH.

Tổ ông phong gia phả củ không ghi thêm thông tin nào nữa, có thể ông đã quy vào tổ đường đồng tự tộc.
Gia phả năm 1999 đưa ông vào đời thứ 8 là không đúng vì có người ghi chép gia phả cổ thời Tự Đức năm thứ nhất gọi ông là Cao Thúc Tổ thì ta suy luận phải xếp ông vào đời thứ IV.
Vua Tự Đức năm thứ I là năm 1847
Người chép lúc ấy khoảng 25 tuổi tức sinh năm 1822.
Cha ông sinh năm 1797.
Ông nội của ông sinh năm 1772.
Ông cố sinh năm 1752.Và cao thúc tổ của ông phải sinh vào khoảng năm 1726à1730, dĩ nhiên ông phải nhỏ hơn ông Thức (1725) khả năng ông sinh vào năm 1727.


ĐỜI THỨ V  -  PHÁI I   -   CHI 2

TRẦN  CÔNG TỘC  -  VÂN  QUẬT

Tổ ông bá phủ: TRẦN  CÔNG  THANH  ( Nguyên )
       
Tổ mẫu:                        THỊ      KHOA
                     
 

Mộ ông bà cải táng tại nghĩa địa Tân Định làng Vân Quật xã Duy Thành huyện Duy Xuyên.

  Sanh hạ

Tổ cô :                   1. TRẦN THỊ NGUYÊN
Tổ ông bá phủ:     2. TRẦN CÔNG TOÁN (HUYÊN)
Sanh hạ hậu duệ thành tộc Trần Công Vân Quật, huyện Duy Xuyên. 
Tổ cô :                   3.TRẦN THỊ HOÀNG  


ĐỜI V  -  PHÁI II  -  CHI PHÁI 1&2   -   ĐIỆN DƯƠNG
 
Tổ công: TRẦN    CÔNG  BÁNH

Tổ bà: Chánh Thất HUỲNH  THỊ THÀNH
Thứ Thất LÊ THỊ NHỊ
                                    
Kị ông ngày 21 tháng 9,mộ tại Xóm Cát
Bà người Tộc Huỳnh làng Gia Lộc-Hà Lộc
Bà thứ hai Tộc Lê nhưng không ghi gì thêm

Sanh hạ
Quý công (dòng 1)     
1. TRẦN CÔNG PHƯƠNG
2. TRẦN CÔNG LAI
3. TRẦN CÔNG THẠNH
4. TRẦN CÔNG LỢI
5. TRẦN CÔNG THUẬN
Quý cô                         
6. TRẦN THỊ THÁI
Quý công                    
7. TRẦN CÔNG VẶC     
Quý cô                         
8. TRẦN THỊ BẢO
9. TRẦN   THỊ QUYỀN
10.TRẦN THỊ QUYÊN
Quý cô  (dòng 2)       
11. TRẦN THỊ KHỞI

 
Moä oâng Traàn Coâng Baùnh



ĐỜI V  -  PHÁI II  -  CHI PHÁI 1&2  -   ĐIỆN DƯƠNG

Tổ ông bá phủ:
TRẦN CÔNG SIÊU (ĐOAN).

Sanh hạ
Tổ ông
1. TRẦN CÔNG LỒNG (LÙNG).
2. TRẦN CÔNG LĂNG.
 
 



ĐỜI THỨ VI  -  PHÁI I    CHI 1    NHÁNH 1

Tổ ông bá phủ: TRẦN        CÔNG       NGHIÊM
       

Hiệu:Hằng Đức
Tổ mẫu: LÊ THỊ NỠ
          
 

Kỵ ông ngày 13 tháng 4 âm lịch – kỵ bà 19 tháng chạp.

Sanh hạ:
Quí công bá phủ:                 
1. TRẦN   CÔNG       ĐƯỢC
2. TRẦN   CÔNG       LĂN
Quí cô nương nương:         
3. TRẦN   THỊ            TRÒN
Quí công trọng phủ:           
4. TRẦN   CÔNG       SỪNG
Quí công thúc phủ:             
5. TRẦN   CÔNG       TRÁI
6. TRẦN   CÔNG       SÁCH
Quí công quí phủ:                
7. TRẦN   CÔNG       SỔ
8. TRẦN   CÔNG       ẨN
9. TRẦN   CÔNG       SOẠN


ĐỜI THỨ VI   -  PHÁI I   -   CHI 1  -   NHÁNH 2

Tổ ông bá phủ: TRẦN CÔNG THÀNH
                陳  公 成
Tước vị: Đặc Trấn Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thái Uý Chơn Quận Công.
Tăng phong:Thái Bảo Quốc Công. Tứ Hàm Trung Thuận Trần Tướng Công

Tổ mẫu : ĐẶNG THỊ CƠ
        鄧 氏 基
Tước vị :Trần Quận Công Phu Nhân Thượng Tướng Quân Nương Nương. 


 

  

Kỵ ông ngày rằm tháng 7 và bà hiệp kỵ cùng ông.
Mộ ông bà an táng tại rừng Đông Giá, gần kênh thôn 5 Cẩm Thanh Hội An.
 Sanh hạ:

Quí công bá phủ:
1. TRẦN   CÔNG       GIAI
2. TRẦN   CÔNG       ĐẠI

Quí công trọng phủ:   
3. TRẦN   CÔNG       ĐÍCH
4. TRẦN   CÔNG       QUYỀN

Quí cô nương nương:         
5. TRẦN   THỊ            QUỴ
6. TRẦN   THỊ            BÁI
7. TRẦN   THỊ            THẢO

Tiểu sử Tổ cô Quý phi:
Tổ cô Trần Thị Quỵ quý phi hoàng đế Quang Trung.
Khi vua Gia Long dựng lại cơ đồ Nguyễn Phúc, triều đại Tây Sơn thúc thủ, bị vua Gia Long hành hình ,bà quay về quê cùng 2 tỳ nữ ẩn náu tại Kim Bồng, Hội An đưa đò đời dân giã tại bến đò Ba Nữ, bà bị thuộc hạ quan quân của vua Gia Long truy bắt. Bà bị xử trảm tại bãi cát thôn Thí  Lại (Thôn 2), xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên. Thủ cấp của bà họ mang về dâng nộp và sau đó bêu tại cửa An Hoà, kinh thành Huế, ở đó có lăng thờ. Phần thi thể thả sông trôi dạt đến bên hai mộ nội tổ, người trong gia tộc bí mật an táng tại Rừng Rẫy thôn 5 Cẩm Thanh, trong quần thể khu di tích văn hoá cấp nhà nước được công nhận ngày 21 tháng 11 năm 1991.

Mộ bà cấu trúc hình lưng qui, bia dựng phía đầu có đề: “Đông Châu Tiền Triều Hoàng Đế Quý Phi Nương Nương Mộ” Bia lập năm Mậu tuất 1875.

Bãi cát Thi Lại, nơi bà Quý phi Trần Thị Quỵ bị hành hình.
*Các tổ ông đời thứ 7 là bào huynh của bà không còn ai kế thế, đã qui lai tổ đường đồng tự.
* Tổ ông Trần Công Giai có tước vị “Võ Vệ Cai Đội Nguyên Hoà Hầu.”
 
“Đông Châu Tiền Triều Hoàng Đế

Quý Phi Nương Nương Mộ”
  




Share:
spacer

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

do