TÁC GIẢ TRẦN VĂN ĐƯỜNG ( VLSDH TPHCM )
Dòng
họ Trần tại làng Kỳ Lam, tổng Đa Hòa, nay là xã Điện Thọ, huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam có một thanh thế khá lớn đối với địa phương, là điều
đáng mừng vui trong tộc họ. Việc dựng gia phả đã có từ nhiều đời trước,
nhưng lịch sử càng ngày càng nhiều sự kiện, dòng họ mỗi lúc mỗi đổi
thay thêm bớt, những văn bản thời xưa là rất quý nhưng đời sau xem ra
không hiểu hết; không bổ sung, không tu chỉnh cho phù hợp e sẽ nhọc nhằn
cho cháu con.
Nỗi trăn trở của những người lớn tuổi mang nguyện
vọng, muốn báo đáp tròn vẹn hiếu tình với tiên tổ, với những bậc sanh
thành; ngoài việc xây dựng từ đường, tôn tạo Tông miếu, mồ mả; có gia
phả thể hiện đủ giềng mối thế thứ, tông chi, nội thân ngoại thích là rất
cần thiết.
Qua một thời gian dài cùng nhau bàn bạc việc ghi
chép phả nhưng gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu, trong kỹ thuật để
thỏa đáng yêu cầu thời đại nên chưa có thể biên soạn. Nếu mọi việc thuận
lợi, bộ gia phả dòng họ chúng ta được soạn thảo theo yêu cầu cao từ gia
tộc, cộng thêm sở trường của chuyên gia gia phả dòng họ; chúng ta hy
vọng họ Trần làng Kỳ Lam, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn có được một tác phẩm
văn hóa dòng họ phong phú và hoàn chỉnh với nội dung như sau.
Bộ gia phả biên soạn cho phái nhất, chi cao tổ Trần Phú Lập gồm các nội dung như sau:
Phần
thứ nhất: Tiếp theo Lời tựa, phân trần cùng Tông tộc những lý do phải
dựng lại bộ phả. Phả ký, mục chính của phần thứ nhất, ghi lại hành trình
của đức Tổ Tiền hiền họ Trần đến tạo dựng sơ cơ tại làng Kỳ Lam, tổng
quan dòng họ Trần ta hình thành và phát triển trải qua 16 đời sanh hạ
nơi đây. Xứ sở Kỳ Lam, chiếc nôi con cháu họ Trần lớn lên cũng được ghi
nhận như một duyên nợ, đầy nghĩa tình, được gắn bó trong đời người họ
Trần dù đã lưu lạc nơi đâu.
Phần thứ hai: Tông đồ, vẽ theo sơ đồ
tổ chức; chỉ ghi các tổ ông, không ghi các tổ tỷ, thể hiện từng đời
sanh hạ. Các vị cùng đời thể hiện trên một thanh khung dàn ngang; sự
quan hệ nối kết bằng một đường nối. Từ đời thứ I đến đời thứ IV thể hiện
tông đồ Tiền hiền – Hậu hiền Trần tộc, đời thứ V đến đời thứ IX là các
cao tổ chi ngài Lập.
Phần thứ ba: Phả hệ, chi tiết từng thành
viên, gia cảnh, thân thế sự nghiệp, hình ảnh, con cái và các quan hệ
thân tộc, xã hội, sống – chết, ở đâu, mồ mả … Tư liệu tổng hợp được sẽ
đưa vào, bằng những thông tin do gia đình cung cấp; nếu không, có thể để
những khoảng trắng để bổ sung sau. Muốn xem chi tiết phải vào mục lục
để đối chiếu, vì phần nầy chiếm hầu hết dung lượng sách.
Phần
thứ tư: Phần ngoại phả, đưa những vấn đề có liên quan gia tộc Trần tộc
Kỳ Lam, ngày húy kỵ của tộc, chạp mả, xuân thu quí tế, giỗ tại một số
gia đình …
Trong khả năng tổng hợp và sự thống nhất của các
phái, bộ gia phả chỉ soạn cho phái nhất, chi cao tổ Trần Phú Lập; các
chi phái khác sẽ tuần tự thống nhất, rút kinh nghiệm dựng sau để Trần
Đại Tộc được đầy đủ, mỗi phái, mỗi chi đều có.
Nhưng cuối cùng,
tiếc vì kinh phí có hạn các anh em tại Kỳ Lam tự biên soạn, mặc dù không
như yêu cầu trên nhưng cũng đã hoàn thành xong bằng chữ quốc ngữ, những
mong đợi của tộc Trần ta cũng đã lấy làm mãm nguyện và vui mừng.
Sở
dĩ việc đã không làm mà còn ghi lại là vì khát khao của riêng tôi, vì
phước của tổ tiên đã để lại cho dòng họ như thế nào con cháu đời sau
chưa có dịp biết chưa có nơi ghi lại, vì những điều tốt đẹp của gia tộc
trong bộ gia phả vừa soạn không có, vì lời nhắc nhở cần ghi của thân
sanh tôi lúc sanh tiền tôi không cùng anh em bàn được. Mong rằng khi có
cơ duyên ta cùng nhau viết tiếp với nhiều chi tiết thống nhất hệ thống
như trên, trọn vẹn hơn.
Trước mắt, tôi viết tập “NGƯỜI HỌ TRẦN
KỲ LAM” nầy bổ sung cho những gì còn thiếu trong phần Phả Ký, nội dung
thứ nhất vừa giới thiệu, phần nầy sẽ vẽ ra toàn cảnh thân thế họ nhà ta
mười sáu đời có mặt trên xứ sở Kỳ Lam từ khi còn thuộc phủ Triệu Phong,
trấn Thuận Hóa cho đến nay là huyện Điện Bàn của tỉnh Quảng Nam.
Dòng
họ Trần ta vinh quang cũng từng có, thăng trầm cũng lắm phen, nhưng
niềm tự hào về huyết thống không bao giờ suy sụp, gương hiếu đạo luôn
giương cao, đó là niềm vui vô hạn, tổ tiên đang ngậm cười nơi tiên cảnh.
Gìn giữ giềng mối, phát huy tốt đẹp trong họ tộc là trách nhiệm, là nghĩa cữ cao đẹp mà con cháu họ Trần chúng ta gánh vác.
Thay cho lời kết ta cùng nhau suy gẫm điều người xưa còn để lại:
“Khí phách tồn thiên địa – Tinh thần tại tử tôn”
Mùa Xuân Năm Quý Tỵ (2013)
Nội tôn đời thứ XIII
Trần Văn Hòa tự Hoành
Cẩn bút
PHẢ KÝ BẢN CHỮ NHO
PHIÊN ÂM
Điện Bàn Phủ, Đa Hòa Tổng, Kỳ Lam xã, Trần tộc bổn phái tự tôn đẳng.
Cung
duy Trần Đại tộc, Thủy tổ Tiền Hiền Bắc địa sơ cơ, Dĩnh Xuyên cựu quận,
Nam thiên tỷ ấp Thuận Hóa kinh kỳ, Mộc Hãn, Hương Trà huyện lỵ, Mộc Hàn
xã cư.
Lê Triều Hồng Đức đáo du Quảng Nam, Điện Bàn phủ lý khai
phá thảo lai tịch kỳ điền thổ hiện đắc công tư lục bách dư mẫu lưu
truyền chí tư kinh thập ngũ thế Kỳ Lam xã hiện.
Điện Bàn Phủ, Đa Hòa Tổng, Kỳ Lam xã, Trần tộc bổn phái tự tôn đẳng.
Phụng
Hội đồng tu lập thế thứ phổ hệ sự diên bổn phái tùng tiền hữu cấu lập
tự đường, nhất tòa phụng sự lịch đại tôn tổ, tồn tứ thân cao tằng tổ
khảo các các, vọng thiết tại tư gia phụng sự thế giũ gián tín tình giũ
sơ bất năng liên hiệp, gian hữu vi bần sở lụy hương hỏa hàn yên, hoặc
hữu kế tự vô nhơn, mộ phần thất lạc. Thiết tưởng nhơn sanh hồ tổ, vật
bổn hồ thiên liên lạc chi tình bất cố phấn luôn chi tự giũ khuy bỉ tứ
hải nhạ giai huynh, huống nhất đường nhẫn vong. Nãi tổ ngôn niệm cập thử
khởi ngôn niệm, điềm nhiên nhiếp thử nhân thời canh cải tùy sự tiện
nghi, nhân bá đường tự Vũ nguyện cúng vi hội chi đường tiền tự gia thiên
kế lập phụng tiên chi chánh tẩm, thứ dĩ đôn hiệp kính đồng ái chi sơ
tâm nhi doãn phó thận chung chi nghĩa vụ tư tắc thiên cấu sự thành hội
đồng định sở nãi lục tu. Thế thứ phổ hệ thượng tự Thỉ tổ Tiền hiền Hậu
hiền thế tổ hạ chí cao tằng tổ khảo, cập lịch đợi tổ bá, tổ thúc, tổ cô
vô hậu thất tự chư linh khảo tỷ tánh dong tự hiệu quân chiếu thế thứ kế
trần du tả tịnh tự hậu . phái nội bất cầu hà hạn nhơn quá thế tam niên
mãn phục quân đắc chiếu thứ khiêu nhập tự đường phụng sự tịnh gián thế
thường niên. Tự tôn hà hệ sanh tử hôn thú tất do bảo phái nhơn trình cáo
chiếu thế thứ thế thứ phổ hệ niên ngoạt tánh danh quán chỉ tục biên lưu
chiếu thứ miễn sai lạc tư hội tri phổ hệ tờ.
Đinh Mùi niên, nhị ngoạt sơ nhất nhựt, Đà Nẵng, Đông Lợi, An Khê khu phố phụng sao phổ hệ nhất bổn, tự tôn Trần Văn Học
Bản chữ Nho phả ký có âm Việt ngữ
HỌ TRẦN TỪ NGUỒN CỘI
Trần
tộc nói chung, tại các nơi trên thế giới đều có một nguồn gốc nguyên
thủy là Dĩnh Xuyên quận, ngày nay là tỉnh Hà Nam, đã thuộc đất của Trung
Hoa. Nguồn gốc họ tộc Việt Nam phần lớn xuất phát từ dòng Bách Việt,
từng sanh sống phía Nam bờ sông Dương Tử, qua những biến chuyển lịch sử,
dòng Bách Việt lan tỏa đi nhiều nơi, đầu tiên do thế lực phía Bắc của
Trung Nguyên, sau đó dòng người Hoa Hạ lai giống lấn chiếm đồng hóa, xua
đuổi. Từ đó nhiều dòng họ chạy về phía Nam hoặc vượt biển về phía Đông.
Sau nầy có những nhóm người gốc người Bách Việt ở rãi rác trên địa cầu
sau khi tổ tiên họ đã có quốc tịch là do bị đày, trốn nạn nước nạn nhà,
trôi dạt quan hà, lâu quá thành lạc tông thất tích.
Theo tài
liệu thu thập của nhà sưu tập Dược sĩ Bùi Văn Quế; năm 50.000 trước Công
nguyên giống Indonesien từ Châu Phi đến miền Trung của Việt Nam ngày
nay, miền Nam Việt Nam thời đó còn chìm trong nước biển của Thái Bình
Dương. Với từng nhóm ít người trên thuyền họ đổ bộ vào đất liền và lai
giống cùng người bản địa, sau tràn dần về phía Bắc tại khu vực Sơn Đình
Động. Năm 8.000 TCN, người Indonesien xây dựng nền văn hóa Ngưỡng Thiều.
Đến năm 2975 TCN vua Thần Nông xuất hiện mở đầu kỷ nguyên phát triển
dòng người Bách Việt, dựa trên ngôn ngữ thì Thần Nông không phải là
người thuộc các dòng người Trung Quốc như hiện nay. Năm 2950 TCN, trên
châu thổ sông Hoàng Hà có dân tộc Miêu, người Mông Cổ đánh đuổi chiếm,
niên đại đồng thời là Hoàng Đế của Trung Quốc. Năm 2900 TCN, cháu ba đời
vua Thần Nông là Đế Minh cai quản dòng người Bách Việt sống dọc bờ Nam
sông Dương Tử. Khi tuần thú phương Nam, ông gặp con gái bà Vụ Tiên là
Long Nữ Động Đình Quân, ở lại sanh Lộc Tục, mãi đến năm 2879 TCN, Kinh
Dương Vương tức Lộc Tục, con vua Đế Minh lập nước Xích Quỹ đồng niên đại
Thiếu Hạo, nơi bắt đầu phát triển nòi giống người Việt chúng ta. Năm
2840 TCN, có Lạc Long Quân kết duyên cùng con gái của Đế Lai là Âu Cơ,
để lại cho hậu thế 4000 năm sau một đàn con huyền thoại nở từ trăm trứng
một bầu thai. Lạc Long Quân quây quần cùng hàng trăm bộ tộc giữa thời
đại Trung Hoa là Xuyên Húc. Năm 2800 TCN, niên đại Đế Cốc thời kỳ vua
Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, Hùng Vương dựng nước Văn Lang, truyền nối
mười tám niên đại và ta là cháu con, giống nòi, dòng họ len lỏi trong
từng mãnh ghép lịch sử.
Từ lịch sử, những dòng họ chạy về phía
Nam phát triển tổ nghiệp, lập quốc dựng cơ đồ mới ở một cỏi riêng, trong
đó có dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ quê hương nguyên sơ của cội nguồn
bị cướp mất, để nhiều đời sau còn qui ước nhìn lại huyết thống đầu tiên,
hoặc để nuôi mộng có ngày phục quốc … các dòng họ thường ghi theo hoặc
quận, hoặc đường vốn là sơ khai quán như Kinh Triệu quận của họ Lê,
Thanh Hà quận của họ Trương, Trần Lưu quận của họ Nguyễn; Giang Hạ đường
của họ Huỳnh, Thái Nguyên đường của họ Võ… Có thông tin rằng quận,
đường là địa chỉ tập hợp người cùng họ nơi Âm Phủ, đó là giải thích
gượng ép của các thầy pháp, thầy cúng nhà chùa chưa có điều kiện nghiên
cứu cạn lẽ.
Họ Trần chúng ta cũng không bước rẽ ra ngoài dòng chảy ước lệ, mang theo nơi nguyên sơ phát tích với tánh thị của mình là Dĩnh Xuyên quận Trần tộc.
Bởi vậy, con cháu họ Trần mỗi khi mở đầu việc họ tộc đều dùng “Dĩnh
Xuyên quận Trần Tộc”, nhất là các văn khấn, phó ý, gia phả, bài vị.
Có sách ghi rằng Thỉ Tổ họ Trần
có nơi phát tích là nước Trần Cổ của Bách Việt nay đã thành đất Trung
Quốc. Nước Trần Cổ ở đất Dĩnh Xuyên, nay là huyện Vũ, tỉnh Hà Nam. Hậu
duệ của vua Thuấn là Hồ Công Mẫn lập ra nước Trần, con cháu Hồ Công Mẫn
lấy tên nước đặt cho tánh của dòng họ mình. Họ Trần khai sinh từ thuở
đó. Khác với các tộc họ khác là chỉ có thể lấy họ theo tên nước nhưng họ
Trần lập nước Trần để lấy họ. Xét cho cùng tộc Trần có sự khởi đầu là
vua chúa của thiên hạ một cỏi.
Ngài Trần Lãm về làm tướng nhà
Đinh không thân phận chưa mấy vinh vang nên phần hậu vận đời sau không
ai rõ. Mãi đến lúc Tức Mặc (xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, phủ
Thiên Trường) là chốn tạo dựng dương cơ của họ Trần từ ông tổ Kinh, và
con cháu làm nghề đánh cá, một thời tiềm long xử thế, đợi tinh anh gia
thế đủ đầy bước lên chín bệ giữ đạo trời coi sóc con dân Đại Việt.
Suốt
từ năm 1225 đến năm 1400 chống Nguyên - Mông trị nước, đạo quân thần
trên dưới như cha con, lòng dân như một. Một trang sử oai hùng của vua
Trần chói lọi phương Bắc chẳng dám coi khinh, nhưng chẳng mấy ai vạn đợi
công hầu, vận vua cũng có ngày mai một. Quyền uy chuyển đổi, Lê Quí Ly
từ thời Trần Thuận Tông đã bắt đầu thao túng, sau đó giết Thuận Tông đưa
Trần Thiếu Đế mới 3 tuổi lên ngôi để chờ cơ cướp lấy ngôi. Cha con Lê
Quí Ly lấy thanh thế họ Hồ của Vua Nghiêu đổi là Hồ Quý Ly, lấy lòng
thiên hạ để 7 năm chiếm lấy ngôi vua đổi nước thành Đại Ngu. Hồ Quí Ly
tài cao nhưng đức mỏng, uy lực không đủ bị nhà Minh bắt đem về đày làm
lính. Nhà hậu Trần khôi phục lại từ năm 1407 đến năm 1413. Vua bị quân
Minh bắt cùng tuỳ tùng, trên đường giải về Tàu nhảy xuống biển tự vẫn.
Con dân Đại Việt phải chịu lầm than cảnh nước mất 4 năm. Lê Lợi ( tức Lê
Thái Tổ) dấy binh giải phóng được cho dân thoát hoạ mất nước và đã tìm
hậu duệ vua Trần là Trần Cáo lên làm vua để chiêu an thiên hạ và cả nhà
Minh. Công lớn của Lê Thái Tổ là mối uy quyền khống chế ngôi vua, khó
lòng, Trần Cáo phải bỏ cung hoàng xuống thuyền trốn vào Nghệ An nhưng Lê
Lợi đã sai người đuổi theo bắt về bức tử rồi đem chôn theo nghi thức
nhà vua. Lòng dân còn mến đức họ Trần, lợi dụng lòng mến mộ ấy, nhà Minh
buộc Lê Lợi đi tìm dòng họ Trần để nối ngôi. Lê Lợi cáo khống với nhà
Minh là họ Trần không còn ai nữa và đã xưng vương. Trần Nguyên Đán có
cháu ngoại là Nguyễn Trãi, nội là Trần Nguyên Hãn, một quan văn từng
tương kế, một võ tướng thường mưu lược theo giúp Lê Thái Tổ dựng cơ đồ
Lê triều. Nhưng người họ Trần thì bị trấn nước sông Lô trên đường về
kinh kháng án, người họ Nguyễn do cớ Lệ Chi viên lãnh án tru di tam tộc.
Sự truy sát từ thời cha con Hố Quí Ly, rồi nhà Hậu Lê, cháu con nhà
Trần lưu lạc, mai danh cải tánh, có người đã đổi thành họ Đông lên vùng
núi Thái Nguyên ẩn náu, sau này là họ Nông và sau chuyển thành họ Đặng.
Vận nước xoay vần, triều Trần thất thế trong nghiệt ngã của
nghịch tử ngoại nhơn, đời sau nhiều phen trôi nỗi; nhưng Vương triều
Trần làm nên một thời đại liệt oanh nhất lịch sử từ trước đến cả ngày
nay. Vô cùng vinh hạnh ta là những con cháu mang dòng máu họ Trần, có
đức tính rất riêng của họ Trần, mà cái bóng sáng chói là nghĩa tình anh
em, dòng họ chứa chan, đức độ cái thế và tài ba của vua Trần Thái Tông
và Đức Trần Hưng Đạo.
Vinh quang họ Trần ngàn năm con cháu không
thể vô tình đánh mất, tổ chức dòng họ Trần Việt Nam hình thành; Ban
chấp hành họ Trần là những người vì dòng họ tự nguyện đứng ra góp công
sức để quy tụ những giọt máu Trần còn rời rạc, nhắn nhũ cùng vun bồi
huyết thống sâu xa. Cả mười năm suy nghĩ, BCH họ Trần quyết định tôn
ngài Trần Thừa làm Thủy tổ họ Trần Việt Nam, những bậc cao hơn qui về
ngôi Viễn Tổ Lịch Đại Tông Thân. Sự nghiệp vẻ vang của Vương Triều Trần
là điểm tựa tâm linh, là niềm tự hào giòng máu của người họ Trần với mọi
thời đại. Tuy chưa đem những lợi ích rõ ràng cho con cháu, nhưng đã hun
đúc được tình yêu cốt nhục, đã cho anh em thấm thía tiếng cội nguồn.
Nhà thờ, lễ hội, những sinh hoạt mang tính về với tổ tiên luôn duy trì
và BCH khắp nước rất để tâm chiếu cố đến các chi họ Trần, từ tinh thần
đến vật chất. Đây là thông điệp: “Anh linh Tổ họ Trần chan hòa khắp cùng
cho những giọt máu Trần mang nhiều sắc màu, hãy điểm tô bức tranh vàng
son còn nhiều trang chưa đến cuối cùng”.
MỘC HÀN NƠI ÔNG BÀ ĐÃ DỪNG CHÂN KHAI NGHIỆP
Mộc Hàn xưa thuộc huyện Tư Vinh sau đổi là Xuân Hòa, Phú Vang, nay là làng Xuân Hòa, xã Thủy Vân,
thị xã Hương Thủy, nằm phía Đông Nam thành phố Huế. Nơi đây tổ tiên họ
Trần ta còn một chi họ ở lại và sanh hạ nhiều đời, thỉnh thoảng lớp tiền
bối có về đó thăm. Sự kết nối huyết thống người họ Trần Kỳ Lam không
thể quên nơi nầy để mất dần nguồn cội và tổ chức về thăm là việc nên
làm.
Năm 1546 tại đây mang địa danh Kỳ Pha, năm 1753 – 1777 đổi thành làng
Kỳ Lam (Ô Châu Cận Lục), Kỳ Pha rồi Kỳ Lam đã 400 năm trước các tiền
hiền khẩn đất lập làng, nhưng đình làng, nhà thờ Thất Tộc Tiền Hiền và
chùa xây dựng năm nào không ai biết. Đến năm 1945, làng Kỳ Lam là đại
xã, phát triển lớn mạnh, dân làng giàu có nên đình làng có qui mô rất
lớn. Đình có năm gian chính và hai gian hè; mỗi gian 2mét5; từ trước cửa
đến sau sâu vào 15mét; 48 cột gỗ người lớn ôm không giáp. To lớn đến
nỗi những gì lớn cũng đem đình ra ví von. Lối vào, đồ đạc trong đình cái
gì cũng lớn; “Lớn thình thình như cái trống đình Kỳ Lam, rộng chình ình
như cái đàng đình Kỳ Lam”. Đình làng thờ Bổn Cảnh Thần Hoàng, Xuân kỳ,
Thu tế theo tiết Xuân phân, Thu phân; cờ biển, lễ nhạc trang nghiêm,
tiệc tùng hát bội, dân làng tụ tập mở lễ hội văn hóa dân gian rất vui.
Năm 1945, hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền Việt Minh, Ủy ban kháng
chiến xã Thái Hòa (tên xã được đặt ra năm 1945 tại Kỳ Lam) đã đốt để
tiêu thổ kháng chiến, ngọn lửa rần rật rồi âm ỉ cháy, khói nghi ngút ba
ngày, lòng dân tiếc nuối vô cùng như vĩnh viễn chia tay một kỷ niệm lớn
lên cùng họ trong đời. Cây gáo tỏa bóng cho dân làng nghỉ mát, mục đồng
trải mình đầu gối lưng trâu, các hàng quán đơn sơ nhưng từng làm mát
lòng người ghé lại; đã vẽ ra cảnh một vùng quê Việt Nam hiền hòa người
đi phải quyến luyến, phải quay về như núm ruột chôn thời sơ sinh còn
chưa đứt hẵn với mình. Cây gáo không còn, nó được đấu giá sung vào công
quỹ; thần linh một thời áo đỏ áo vàng lũng lẵng đùa nhát kẻ đi qua, ma
ru con lãnh lót trên cành hù mấy bà chạy sút gấu, nơi ông táo bình vôi
dựa cội cổ thụ nằm lăn lóc và là nơi dân làng khề khà thuốc lá nước chè
đen không còn. Từ thần đến dân thậm chí ông Táo bình vôi ai cũng tìm nơi
dừng chân khác nhưng biết có được như một thời đã có hay không.
Làng
Kỳ Lam còn có một ngôi chùa và một nhà thờ “Thất Tộc Tiền Hiền” nằm gần
nhau. Thất Tộc Tiền Hiền có thờ tại đình làng, nhưng vẫn đặc biệt thờ
riêng, chọn ngày 23 tháng 6 âm lịch hằng năm là ngày giỗ hội của thất
tộc. Tộc Trần là tộc cả, kế đến là tộc Nguyễn Đình và Nguyễn Đức, tộc
Huỳnh, tộc Đỗ, đặc biệt tiền hiền họ Lê lại là một vị Bà… Khi giặc Tây
phát hiện chính quyền Kháng chiến Việt Minh tổ chức Hội nghị tại chùa Kỳ
Lam, bọn chúng đốt chùa, đốt luôn nhà thờ Thất Tộc. Bài vị tộc nào con
cháu mang về thờ tại nhà tộc trưởng, dần dà lập miếu, lập từ đường an
vị, riêng bài vị Tổ họ Nguyễn Cổ khai cơ nghiệp nhưng sau không ai ở
lại, bài vị Lê Bà không giữ họ khi xuất giá nên cả hai không có miếu và
cũng không tế tự riêng. May mắn Hương phổ Thất Tộc Tiền Hiền Kỳ Lam lập
năm Gia Long thứ VIII,
ngày mùng 3 tháng 9 âm lịch (tức năm 1810) còn giữ được và do ông
Nguyễn Đình Mai lưu giữ tại nhà thờ tộc để thừa sao như một di chỉ quí
báu của dân làng. Qua nhiều thời kỳ, từ Kỳ Pha năm 1546 đến Kỳ Lam năm
1753; rồi ngày chính quyền Sài Gòn tại đây là xã Điện Quang, sau hình
thành khu Kỳ Lam gần như tổng ngày xưa cơ quan đóng tại Kỳ Lam; có 31 xã
thuộc 5 liên xã là liên xã Kỳ Tân, Liên xã Kỳ Quang (vùng trên), liên
xã Kỳ Châu, liên xã Kỳ Minh (vùng giữa) và liên xã Kỳ Ngọc (vùng dưới).
Liên xã Kỳ Châu gồm các xã Phong Thử, Ngọc Trâm, An Tế, Bì Nhai, Long Hội và Kỳ Lam.
Đến năm 1959 thì khu hành chánh giải tán, Ngày Giải phóng 1975 lại có
tên xã Điện Thái và nay là xã Điện Thọ. Quê hương Kỳ Lam, nơi bản doanh
của 24 cơ quan tiền phương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cũng là nơi
hứng hàng chục tấn bom làm dân chúng kẻ chết người bị thương, đầy những
xót xa một thời ai cũng chia nhau nhận lấy.
Từ năm 1990, đất
nước chuyển mình phát triển nhiều mặt, Kỳ Lam dần dần thay đổi cuộc
sống, người dân bắt đầu có nhà cao cổng rộng sáng sủa, tươm tất; xe cộ
rộn ràng; gái trai chưng diện đủ mode thời trang. Về mặt nhà nước đã đưa
ra nhiều chương trình xây dựng nông thôn, đường quê không còn nắng bụi
mưa lầy, không còn lởm chởm đá nổi vũng voi ổ trâu mà thay vào là đường
nhựa nóng, khắp ngỏ ngách đều bê tông hóa sạch đẹp. Nhớ khi mới về lại
quê nhà sau ngày giải phóng, cỏ cây ngỗn ngang, tre lom khom ngã bóng,
mỗi khi tối đến đầu làng cuối xóm tối om, trong nhà liu hiu đèn dầu, nay
điện về sáng rực nhà nhà, ngỏ ngỏ. Lại nhớ thời bao cấp nước nhà khó
khăn, muốn mua một món gì cũng chờ hợp tác xã mua bán phân phối bằng
cách trao đổi heo, trao đổi lúa, thậm chí chiếc vỏ xe đạp đứt triên, bể
toát phải may lại bằng vải áo giáp lính Mỹ; nay quán nhỏ tiệm lớn mọc
đầy, từ cái ăn ngon, cái mặc đẹp, đến các dụng cụ phục vụ cuộc sống
thượng vàng hạ cám đều có. Âm vang cuộc sống tưng bừng, trường mẫu giáo,
trường tiểu học, trường cấp II, trường cấp III nỡ rộ như hoa. Các ông
Tú, ông Cử về làng tấp nập nên biển cờ làng chẳng còn đem ra rước. Nhân
tài Kỳ Lam bay nhảy khắp nơi, có người vươn cánh bay trên đất nước
ngoài; ông chủ lớn nhỏ, quan cao thấp hầu như có cả. Những người cao
tuổi, người có lương hưu, kẻ có trợ cấp nhà nước, người chưa già lắm
cũng có lộc của con, nếu không cũng còn ruộng vườn cây trái gieo trồng
theo công nghệ mới thu hoạch khá cao, xét cho kỹ, không ai nghèo túng.
Có
thể nói Kỳ Lam hiện nay là lúc thịnh vượng nhất từ trước đến nay. Đất
đãi người, người chăm đất, nối chí người xưa nông thôn chẳng mấy chốc
hóa thị thành.
Trở lại với họ Trần làng Kỳ Lam; có phải người họ
Trần có mặt nơi đâu là vinh quang về nơi ấy! Xin lỗi chư tổ tiên các
dòng họ khác đã từng là chiếc nôi ấm áp nhà họ ngoại của nhiều thế hệ họ
Trần để được nói với họ Trần những gì phải nói. Ông bà nhà ta từ Thanh
Hóa ra đi trong thời điểm nào, lâu quá người trước không ghi, chút dư âm
còn sót lại nối truyền nửa hư nửa thực, phận hậu sanh cứ chấp nhận vậy
để tiếp tục để đời. Nơi các ngài đến rõ ràng nhất khi chưa dời chân về
khai mở Kỳ Lam là làng Mộc Hàn, phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa địa danh có từ thời Lê Thánh Tôn, tức một làng đã đổi tên là làng Xuân Hòa, xã Thủy Vân, thị trấn Hương Thủy, thành phố Huế
bây giờ. Nơi đây con cháu họ Trần làng Kỳ Lam có tìm về và xác nhận ông
bà họ Trần làng Kỳ Lam từ giả Mộc Hàn từ đời thân phụ ngài TRẦN MẬU THÁI và ngài TRẦN KHÊ HẦU đại lang.
Qua
mấy chặng dừng chân, trong bước đường di dân của Chúa Nguyễn vào khẩn
đất Hoành Sơn làm theo như lời tiên tri của Bạch Vân cư sĩ tức Trình
Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Dù
rằng đất Hoành Sơn bao trùm cả một vùng Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng
Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngãi) khi Quảng Nam - Quảng Trị -
Quảng Đức chưa hình thành chỉ chung một trấn nên Mộc Hàn và Kỳ Lam không
khác tỉnh nhưng đèo Hải Vân ngăn núi, phá Cầu Hai cách bến nên hai quê
hương của chúng ta thời kỳ đó thành xa lạ. Ngài Tiền Hiền Trần Mậu Thái
và ngài Tiền Hiền Trần Khê Hầu, em ruột ngài Mậu Thái, hai anh em đến Kỳ
Lam đem sức trai khai khẩn đất hoang hóa lập làng cùng các tộc Tiền
Hiền, trước sau có bảy tộc chính là Họ Trần, Họ Nguyễn Đình Nguyễn Đức,
Họ Huỳnh, Họ Đỗ, Họ Nguyễn Duy, Họ Lê, Họ Nguyễn Cỗ (họ Nguyễn Cỗ về lập
làng sau chuyển đi nơi khác nhưng dân làng vẫn tưởng nhớ thờ tự). Về
sau có thêm Họ Đinh. Họ Phạm, Họ Mai, Họ Nguyễn Thanh, Nguyễn Hữu.
Ngài
em khai phá lập làng trên hữu ngạn sông Thu Bồn, ngài anh trên bờ Bắc
tức Nam và Bắc Kỳ Lam. Họ Trần tại Kỳ Lam là họ lớn về thanh thế và cả
số lượng nhân khẩu, nhân đinh.
Ngài Trần Khê Hầu, là người em
làm Tiền Hiền an cư trên đất Kỳ Lam Nam, tại đây ngài sanh hạ nhưng chỉ
một đời, sau không còn con cháu trong trực hệ. Dòng Vu Gia ào ào chảy
vào mùa mưa lũ, ngọn nước xói trôi khu làng nầy từ bãi dâu thành hà sa
nước ngậm, chia đôi Kỳ Lam trên hai bờ Thu Bồn. Ngài trú ngụ tại đây bao
nhiêu năm không ai biết và chỉ biết mấy từ “thủy phá hóa hà sa”, quy
luật dòng chảy thuận Nam phá Bắc bồi Nam, thuận Bắc phá Nam bồi Bắc,
trong lòng người họ Trần luôn oán trách Thần Sông, Thần Đất đòi lại
những thứ của thần nhưng chẳng để chút tình. Dân của ngài ly tán, mộ
ngài nước giật, sợ chìm trong phù sa nơi đáy nước, con cháu đời sau
trong tộc dời mộ ngài về bên mộ bào huynh trong khu mộ Tổ, linh vị cùng
Thất Tộc Tiền Hiền an vị.
Các bài vị thờ tại nhà thờ Thất Tộc xưa nay, họ Trần có … linh vị, là những linh vị được đặt nơi chánh giữa.
Thứ nhất: Phụng vì truy viễn Sơ Tổ Dĩnh Xuyên quận Trần đại lang Tiền Hiền khai khẩn đệ dẫn Thượng tự Cao Tổ dĩ hạ vãng Thất Tổ.
Thứ hai: Phục vì Tiền vãng Cao Tổ Cai tổng Võ Khê Bá Trần quí công đại lang đệ dẫn Cữu huyền cổ chi vị đồng đẳng bỉ ngạn.
Thứ ba: Phục vì Tiền vãng Tằng Tổ Cai tổng Hùng Tài bá Trần thọ Lãnh đại lang phổ tiếp bát thế nẵng thân chí liệt vị môn trung.
Con
ngài Trần Khê Hầu là Trần Thọ quí công Cai huyện hoành (chưa xác định
được chữ Hoành là tên của ông hay là nghĩa một huyện lân cận) cũng là
Hậu Hiền. Hậu duệ ngài Trần Thọ Lâm, hiền điệt của ngài Trần Công Đệ Khê
Hầu, đứng ra lãnh phần thừa tự, kế thế phụng thờ, thổ điền phụng thủ
nhưng đến đời thứ IV thì thất tự. Hậu duệ ngài Trần Thọ Diên tiếp tục
thừa tự các ngài thất tự trong phái Nhì.
Ngài Tiền Hiền Trần Mậu
Thái, khai cơ khởi nghiệp làng Kỳ Lam, là thân phụ các ngài Hậu Hiền
Trần Thọ Lãnh – Trần Thọ Diên – Trần Thọ La – Trần Thọ Lâm và các bà
Trần Thị Phò – Trần Thị Đây.
Toàn cảnh Từ Đường Trần Tộc
Hai
người con trai của ngài sanh hạ lưu lai đến ngày nay được mười sáu đời.
Vì quá đông nhân khẩu, để thuận lợi trong việc kỵ giỗ riêng của các
ngài trong phạm vi cữu tộc (thân thuộc trực hệ chín đời, từ cha mình
tính lên bề trên bốn đời cao nhất là Cao Tổ và từ con mình tính xuống
bốn đời) nên đã phân thành hai phái.
- Phái Nhất là hậu duệ của ngài Trần Thọ Lãnh, phái nầy là đông nhất của họ, có 4 chi.
-
Phái Nhì là hậu duệ ngài Trần Thọ Diên, phái nầy con cháu ít hơn. Phái
Hai qui tụ tại bờ Nam sông Thu Bồn, đến khi bị nước xói gần hết thì một
số chuyển về phía Kỳ Lam Bắc. Trong những năm con cháu phái Hai dù ở bên
kia nhưng tất cả sinh hoạt dòng họ đều tập trung tại nhà thờ họ. Phái
Hai có 2 Chi.
- Bà Trần Thị Phò xuất giá làm phu nhân ngài
Nguyễn Đình Triều Tiền Hiền họ Nguyễn Đình. Do cuộc hôn nhân nầy nên mối
tình ràng buộc của dòng họ cháu ngoại Nguyễn Đình vẫn giữ lễ kính xưa
nay, luôn dành phần trên trước cho họ Trần, làm khuôn thước cho các họ
khác bắt chước theo. Thậm chí cử chiêng trống nghinh thần cũng phải chờ
họ Trần nghinh trước, đây là niềm hãnh diện nhưng cũng chính việc nầy
con cháu họ Trần phải thức thâu đêm lo việc của mình để còn kịp giờ cho
các họ khác vào lễ bái.
Mộ ông bà họ Trần, ngày xưa đất thừa,
thưa thớt dân cư nên chôn trên tư điền rải rác khắp cùng trong xã miễn
nơi nào khô ráo, mượt nhuận thì chôn. Phía bờ Nam khi xói lỡ, đồng thời
có lệnh quy hoạch tất cả đưa vào cụm Diêm Sơn. Phía bờ Bắc mộ cũng phải
dời xuống vùng cát Cẩm Sa, xã Điện Nam. Mộ Tiền Hiền cũng không ngoài
lệ, năm 1977, hài cốt ngài nằm giữa ngôi mộ lớn và sâu, ông Hương Sanh
là người trách nhiệm di dời nhưng lực bất tòng tâm, ông đã hốt một hòm
đất đem đi. Ngày ổn định, cho phép được chỉnh trang những phong tục Văn
hóa dòng họ, hài cốt Tiền Hiền được đưa về vị trí cũ, hậu duệ qua đời
tùng theo thành khu nghĩa địa họ Trần. Một số mộ thuộc chi Tư phái Nhất
táng riêng một cụm khác.
Bộ gia phả Trần Đại Tộc Kỳ Lam do ông Trần Hoàng Hạc và ông Trần Đình Năng biên soạn 1971 tại Đà Nẵng
Dù thuộc phái nào cũng vậy, con cháu của các ngài hanh thông, khá giả
vào bậc nhất nhì trong làng, cuộc sống thì phong lưu tuy nhiên làm quan
hay làm dân đều hòa đồng với mọi người. Bản chất người họ Trần Kỳ Lam
hiền hòa, sống rất trọng đạo nghĩa thánh hiền, biết đùm bọc người trong
nội thân ngoại thích, ngoài xóm giềng như thân thuộc.
Đời
nhà nông xưa và nay, những công việc như tằm tơ, đường mía, bắp đậu,
thuốc lá không món nông sản nào không có. Phương tiện sản xuất từ cày,
bừa, trâu phục vụ vỡ đất; lò đường trong che, ngoài chảo; dầu đậu thì có
bộng ép, cối chày, vồ nem lĩnh khỉnh; lại thêm ươm tằm kéo kén, quay tơ
dệt lụa; lại có nhà trồng bông kéo sợi dệt hàng thô … heo gà nuôi không
cầu đem ra chợ bán mà dành khi biển động chợ khan không cá hoặc dành để
ngày kỵ giỗ đám tiệc. Bởi thực lực tài chánh có dư nên trước đây phần
lớn con trai đều đi học, lớp trước học chữ Nho, lớp sau có chữ quốc ngữ
theo quốc ngữ, bằng cấp cao thấp, từ primaire, Diplome thời trước. Ngày
nay gái trai nhỏ lớn được đi học, có người Tú tài, người đến cử nhân,
tiến sĩ không thiếu loại nào. Họ Trần kết nghĩa thông gia với nhiều họ
trong làng ngoài xã, hầu như các họ xung quanh làng Kỳ Lam nếu không là
ngoại của con cháu họ Trần thì họ Trần là họ ngoại của con cháu các họ;
do vậy bước chân ra là giáp mặt kẻ bà con.
Cũng vì lẽ ấy, ông bà họ Trần luôn quan tâm vấn đề gia phả để giữ mối giềng nội ngoại, tránh những lỗi lầm của đời sau mà sai sót do người trước không làm.
Chiến tranh, sự biến động cuộc sống kinh tế, công tác … đưa đẩy con
cháu kẻ ở nơi nầy người nơi khác, từ miền Trung cho đến tận cùng phía
Nam; như Rạch Giá , Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh họ Trần Kỳ Lam nhiều
ít đều có mặt. Không chỉ tại quốc nội mà tại Hoa Kỳ, Thụy Điển, Đan
Mạch, Na Uy, Phần Lan, Úc, Nhựt người họ Trần đều có định cư. Tại thành
phố Hồ Chí Minh, theo lệ tại quê nhà con cháu sống tại thành phố và các
nơi lân cận tập trung tổ chức Hội Vọng Tổ tại phường Bình Hưng Hòa, quận
Bình Tân. Vì chưa đủ kinh phí xây dựng nhà thờ vọng nên còn nhờ nhà con
cháu sinh hoạt. Quê hương vẫn là nơi chính, bao nhiêu đời, xa cách bao
nhiêu năm ai ai cũng tìm về nguồn cội, dâng nén hương tưởng nhớ Tổ Tiên,
ông bà, viếng từng nấm mồ xưa dù biết rằng xương tàn cốt rụi, hóa tro
bụi từ lâu nhưng chính hình hài ấy là chứng tích để đời sau còn ngồi lại
với nhau.
|
Sau
chiến tranh, chờ đợi ổn định nhiều mặt có chậm, một số mồ mả chưa kịp
di dời phải thất lạc, hương hỏa ông bà cũng rời rạc, năm có năm không,
nhất là những năm bao cấp nhà nước còn gặp cảnh cấm vận, kinh tề khó
khăn phải lặng lẽ bỏ mặc, không họ nào cúng kính gì cả; các ngài cao đời
cũng chỉ thờ gửi nhà trưởng tộc một cách khúm núm, đơn bạc, khó lòng đủ
sắc thái trang nghiêm.
Bàn thờ thiết trí bên trong
Bình phong từ đường
Ghi nhớ lời cha
trăn trối trước ngày chung mệnh, ông Trần Hoành (ông 5 Hòa) luôn trăn
trở, tuổi gần 80 ông vẫn phải bôn ba các nước vận động các cháu ở hải
ngoại chung tay; chính ông chỉ hưởng trợ cấp già ông cũng có phần đóng
góp; ông luôn nghĩ đến tộc về nằm tại nước nhà, tiền trợ cấp mặc cho bị
chính phủ nước cư trú cắt. Từ suy tư của những bậc cao niên, trách nhiệm
tạo dựng những công trình chấn hưng gia tộc, gia phong phải khẩn trương
thực hiện. Tinh thần đó đã gióng lên hồi chuông đánh thức nghĩa tình
hiếu thảo, đánh thức niềm tự hào và sĩ diện trong từng người họ Trần
trước tình hình chung các họ đang làm nhà thờ, chỉnh trang nghĩa địa.
Năm
1991, đồng một lúc, từ đường Trần tộc hoàn thành, nghĩa địa, mồ mả Tiền
Hiền các vị và cả tộc được sửa sang khang trang. Sự hợp lực của con
cháu người góp công kẻ chung của là việc làm mang tinh thần nhớ tổ tông,
đề cao hiếu để và nghĩa tình sâu sắc tạo dựng điều vinh quang cho bổn
tộc và cho cả chính mình. Những người ở nước ngoài có con cháu ông Trần
Phú Xáng, Trần Phú Tỵ, người khó khăn trôi dạt đất Rạch Giá, tỉnh An
Giang (ông Xáng còn có tên là 2 Ổi); sau định cư tại Hoa Kỳ gánh vác 70%
giá trị công trình, phần còn lại là cả một cố gắng vì đồng tiền nhà quê
quá khó. Công lớn hoàn thành hai công trình gia tộc một lúc phải nói
đến ông Trần Hoành người xướng và cất công đi tứ xứ vận động kinh phí,
ông Trần Văn Đình là cái bia đối đầu mọi cản trở, công lớn nối tiếp là
người ở tại quê nhà hằng ngày, hằng tháng, hàng năm lo tô bồi chăm chuốc
hai giá trị đã có.
Từ đường xây dựng trên nền cũ, mang đậm nét
văn hóa Việt xưa. Từ đường thiết kế tiền đàng hậu tẩm, thành hai không
gian lập thể riêng. Tiền đàng có tam gian nhị hạ, cổ lầu 4 mái, ngói
vảy, nóc đắp lưỡng long tranh châu; quyết thượng, quyết hạ tiếp nối long
lân qui phụng. Mái hiên chống đỡ bời hai cột đắp hình rồng cuốn nổi,
hai đầu hồi là bức tường chắn thông song chữ thọ trên hai bậc thềm tiện
cho việc tiếp đón phụ lão yếu đuối vào bái yết.
Nối theo phía
sau là tẩm, bố trí nền cao hơn, tường nóc không khác tiền đàng. Không
gian nầy bày thiết các hương áng thờ tự, từ Triệu tổ đến Chiêu tổ, Mục
tổ và nội ngoại tùng tự. Biển, liễn thể hiện bằng chữ Nho để tăng thêm
vẻ oai nghiêm trong thờ vọng.
Nhà thờ khá rộng nên phần minh
đường không cần để thoáng mà bố trí thành một lối đi rộng xung quanh một
vườn hoa kiểng sau lưng bức bình phong hình kỳ lân trên nền thủ quyển
phá cách uyển chuyển của thợ. Hai nghi môn sừng sững bốn mặt đều đắp câu
đối càng tô thêm dáng vóc trang nghiêm cho từ đường. Đúng là bề thế của
một Trần Đại Tộc.
Khu nghĩa địa cũng hoành tráng không kém,
trên một khu đất rộng con cháu còn giữ được. Mộ Tiền hiền về nằm trong
tư thế họ nhà sang nơi ngày xưa ngài từng an nghỉ. Xung quanh tường xây
rào đúc, cổng cửa vào ra có người quản lý. Các mộ xây hình chữ nhật thay
vì xây nấm tròn có huynh, án như ngày xưa. Hình ảnh kèm dưới có thể nói
thêm điều gì còn mà không nói được cho con cháu đời sau biết rõ.
Họ
Trần rất mừng vui khi ông bà nhiều đời trên có nơi an trụ, mồ mả ấm
thân, có lẽ nơi chín suối tổ tiên đã ngậm cười để rãnh rang lo bề siêu
thoát, thùy ấm đức cho hậu duệ vinh hoa phú quý. Dưới bóng mát tổ tiên,
hằng năm tụ họp giỗ tế, kết chặt thân tình nội ngoại, thỉnh thoảng nơi
phương xa cháu con ghé lại có nơi dừng chân, có nơi đốt nén hương tỏ
lòng tưởng nhớ và nghĩ suy, để lời hứa hẹn tô bồi cho tộc ngày thêm rạng
rỡ.
Nghĩa địa tộc Trần
Từng
hoành phi, câu đối trang trí cho không gian thờ cổ kính, thể hiện nét
văn hoa họ nhà vốn dòng hào kiệt, trong đó gửi theo ý nghĩa chữ hiếu,
chữ ân sâu nặng, khuyên nhũ đời sau nối truyền tổ nghiệp vẻ vang, biết
thông đạo làm người có cội rễ căn cơ.
Họ Trần góp phần làm đẹp lại
Kỳ Lam bằng những công trình văn hóa tâm linh, bằng nếp sống gia đình bề
thế, khang trang như ước mơ có ngày to đẹp hơn xưa và đang chở theo cả
chữ hiếu mượt mà của con cháu họ Trần.
Khu nghĩa địa lúc mới xây dựng
Mộ Tiền Hiền
Mộ các ông bà hậu duệ đới X, XI, XII Phái I chi IV
Khu mộ phái I chi IV nhìn từ đầu mộ
Người
họ Trần có truyền thống đùm bọc lẫn nhau, thương yêu cốt nhục như có
tiền nhân đang theo nhắc nhỡ. Chuyện có từ trong lịch sử thời Vương
Triều Trần.
- Ngài Tiết Chế Trần Quốc Công Hưng Đạo Vương và
Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vốn không thuận nhau vì chuyện Thái Sư
Trần Thủ Độ gán ghép tình duyên cha mẹ. Một hôm, từ Vạn Kiếp về, sau một
ngày cùng nhau đánh cờ, ngài Quốc Tuấn đã có cỡi áo nhúng nước lau mình
tắm cho ngài Trần Quang Khải vốn người lười tắm. Chốn quan trường hai
vị trí có thấp cao, nhưng tình huynh nghĩa đệ không cao thấp. Chỉ một
câu nói tuy đơn sơ nhưng thấm tình cốt nhục: “Hôm nay tôi được tắm cho
Thượng tướng – Hôm nay tôi được Quốc Công tắm rửa cho” đã lau sạch luôn
cả những gì ngày xưa còn sót lại.
- Năm 1237, từ việc sắp đặt
mưu cầu nối nghiệp nhà Trần, Thái Sư Trần Thủ Độ buộc Thuận Thiên Công
chúa vợ của Phụng Càn Vương Trần Liễu lập Hoàng hậu cho vua Trần Thái
Tông; nỗi lòng Trần Liễu sanh uất ức làm loạn. Vua lo ngại bỏ lên núi
Yên Tử than rằng: “Ta còn non trẻ phụ hoàng mất sớm không chỗ trông cậy
nên không dám giữ ngôi vua, sợ làm nhục đến xã tắc”, nhưng Thái Sư quyết
một mực đưa về kinh. Trần Liễu giả làm người đánh cá dùng thuyền độc
mộc đến gặp vua xin hàng. Anh em nhìn nhau khóc lóc, Thái Sư hay biết
rút gươm thẳng vào thuyền vua tìm chém Trần Liễu nhưng vua giấu dưới
thuyền và lấy thân mình che cho Trần Liễu.
- Nhân Huệ Vương Trần
Khánh Dư, người mưu lược quân cơ, tài văn thơ nhưng mang bệnh trăng
hoa. Vì thông dâm với Công chúa Thiên Thụy dâu Trần Quốc Tuấn, ngại phật
lòng Quốc Tuấn vua xử phạt, sai quân đem Khánh Dư đến Hồ Tây đánh cho
chết nhưng dặn chớ đánh đau để không phải đến nỗi chết. Sau đó tước hết
chức và tài sản.
Nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua đổ
thuyền ở bến Bình Than, gặp Khánh Dư nón lá, áo cụt chèo thuyền bán
than. Thương người anh em: “Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi”; vua
cho về nhận lại quan vị dưới hàng Vương.
Đó là gần ngàn năm trước, nay anh em họ Trần Kỳ Lam cũng mang theo gương cũ soi mình.
Chiến
tranh là thời thế tạo, đất nước có phân chia nhưng dòng máu thì muôn
đời chỉ một. Kẻ ở miền Nam cuốn theo gió miền Nam, người ra miền Bắc có
lập trường và lý tưởng phía Bắc. Về mặc xã hội trong gia tộc có hai
chính kiến, kẻ ở lại bước theo đường lối tư bản, kẻ tập kết ra Bắc vì
Độc lập tự do trên lý tưởng Cộng sản, anh em trên quan điểm chính trị là
thù địch.
Ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, những người họ
Trần theo Cách mạng thành người chiến thắng trở về, tìm đến thăm họ hàng
người già kẻ trẻ, thăm nhau dù ở gần hoặc ở xa, tình cảm dạt dào, huyết
thống thấm đượm, đặc biệt họ chẳng hề nói chuyện đấu tranh để cách ngăn
tình cảm. Điển hình là ông Trần Văn Đình và ông Trần Nhơn, đã lặn lội
thăm các ông Trần Phước Xáng nguyên phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, ông
Trần Hoanh thẩm phán tòa án quân sự chính quyền Ngô Đình Diệm đang tập
trung cải tạo tại Tiên Lãnh.
Các ông Trần Phước Xáng và ông Trần
Hoanh luôn là tấm chắn cho anh em dòng họ Trần trong suốt thời kỳ có vị
trí quan trọng tại miền Nam. Ông Trần Phước Xáng là quận trưởng Hàm
Tân, sau bổ nhiệm làm tỉnh phó nhưng mỗi khi lái xe đi thấy người cùng
làng là dừng xe mời lên cùng đi, không phân biệt sang hèn.
Ông
Hương Sanh, người đầu tiên của họ Trần Kỳ Lam, đời sau biết là người
từng giúp anh em trong họ. Đó là câu chuyện gia đình anh em ông Trần Phú
Xáng – Trần Phú Tỵ con ông Hương Tích, nghèo khó phải đi bộ vào miền
Nam, thế chấp ruộng, không tiền trả lãi, ông Hương Sanh đứng ra lãnh nợ
để anh em ông Trần Phú Xáng yên lòng gầy dựng cơ nghiệp. Anh em ông sau
giàu sang ở xứ người, cho con ăn học rồi định cư ở Mỹ, để báo đáp tình
nghĩa cho ông Hương Sanh, con cháu là Trần Thao, Trần Trợ con của ông
Trần Đương thành những người đóng góp vật chất lớn cho tộc.
Đến
lượt ông Trần Hoành tức ông Năm Hòa, người kinh doanh sớm thành đạt, rời
xa quê hương từ năm 1951, sanh sống tại Phú Nhuận thành phố Sài Gòn.
Tại nơi đất khách nhà ông là nơi cả làng đến trú ngụ, kẻ bị chính quyền
Sài Gòn theo dõi, người nhà nghèo tìm đất mới làm ăn. Ông đã nuôi cơm,
sắm chỗ ngủ không ngại thời gian và chẳng phiền hà.
Tình nghĩa
vợ chồng ông dành cho anh em, sau ngày giải phóng có một số tiếp tục sự
nghiệp Cách mạng, cũng vì tình anh em họ che chỡ và giúp ông ngày càng
giàu có và cũng chính tình cảm, uy tín của ông được cân nhắc lên làm
trạm trưởng thu mua thủy sản của bộ đặt tại Rạch Giá.
Người Cộng
Sản Trần Nhơn, công tác và nghỉ hưu tại Củ Chi. Người mà ông Trần Văn
Hòa biết đang hoạt động kinh tài ngay giữa lòng đối phương trên đất Sài
Gòn. Ông Hòa đã nuôi ăn, ở công tác trong nhà, mặc dù anh em ruột, anh
em phía vợ ông Hòa là người trong hàng ngũ người Sài Gòn. Ông Trần Nhơn
nhiều lúc ghé nhà ông Hòa, gặp lính, gặp cảnh sát nhưng ông Nhơn thì
nhanh trí, ông Hòa thì khéo léo vận dụng hoàn cảnh che chở nhau không bị
lộ. Ngày 30 tết Mậu Thân, chuẩn bị tổng công kích, ông Nhơn không nói
rõ bí mật quân cơ nhưng ông đã tranh thủ về nhà ông Hòa nhắc bảo: “các
ngày tết không được ra đường, nhớ lời tôi dặn”, gia đình ông Hòa hiểu ý
lo gạo mắm phòng cơ. Cũng chuyện của ông Nhơn, khi ông Trần Nhơn làm
nhiệm vụ về nhà gặp một lúc mấy anh em: Trần Văn Toàn Đoàn trưởng cán bộ
Xây dựng Nông thôn quận Hóc Môn, Lưu Văn Thiệt Thiếu tá Trưởng ty cảnh
sát Cam Ranh, sau có thêm ông Nguyễn Duy Anh, đạp xích lô làm Cộng Sản.
Ông Hòa giới thiệu cho nhau biết. Anh em cùng nhập cuộc uống bia với
nhau đã đời rồi phần ai nấy đi, không hề đối đầu hiềm khích. Ông Nguyễn
Duy Anh sau về làm Giám Đốc Công ty Xuất Nhập Khẩu Cá Rạch Giá và ông
Hòa tác hợp thành rễ họ Trần Kỳ Lam.
Ông Trần Văn Đình có lần đã
thổ lộ tâm tư. “ Ngày trước giải phóng tôi vào chiến trường miền Nam,
mỗi lần ra trận với tư cách chỉ huy, tôi luôn hồi hộp. Tôi không biết
trong đối phương có anh em họ Trần của tôi không; bao nhiêu xa cách đi
làm cách mạng mục đích để dòng họ được sum vầy, Bắc Nam thống nhất, anh
em chưa có dịp gặp, chẳng may ví như lâm trong tình cảnh cốt nhục bắn
nhau hóa ra tôi là người lỗi với tổ tiên”. Câu nói nặng tình cốt nhục
của ông Đình không thể không ghi lại để đời suy gẫm.
Ông Trần
Quang nguyên là cán bộ chính quyền Việt Minh, sau làm chánh văn phòng
quận Điện Bàn. Với tấm lòng vì thân tình, không kể là bà con mà cả người
trong quận, mỗi khi bị chính quyền Sài Gòn bắt ông đều tìm cách xin
tha. Bởi lẽ ấy, ngày giải phóng năm 1975, ông được nhân dân của huyện
Điện Bàn đứng ra đệ đơn xin tha ông không tập trung cải tạo; chính quyền
Quân quản xét thấy chánh đáng và đã nhất trí với đề nghị của nhân dân.
Ông Trần Văn Hòe, tốt nghiệp sĩ quan trường võ bị Thủ Đức của
quân đội Sài Gòn, Trưởng đồn đèo Bình Đê, Quảng Ngãi. Nơi đây thường xãy
ra chiến sự, lý do là những người chỉ huy trước thường hay hạch sách,
bắt bớ dân địa phương. Khi ông Hòe về, nghe lời cha dặn phải sống cho có
đạo đức, không làm những chuyện ác giống người ta. Quả vậy, ông sống
rất yên lành, ngày giải phóng chính dân dẫn đường chạy, về nhà bình yên.
Thật đáng mừng cho con cháu họ Trần. Không những người cùng
dòng họ Trần mà người cùng quê hương, người sống gần bất kỳ ở đâu, họ
vẫn có mối thâm tình, chữ nhân làm đầu, không hại lẫn nhau dù mỗi kẻ một
lối đi, dù giận hờn lớn tiếng nhưng chưa bao giờ hồ đồ đánh đập lẫn
nhau. Oán thù không gieo, oan khiên không ràng buộc là cương thường của
thánh nhân, là đạo làm người; người họ Trần biết giữ.
Gương xưa,
chuyện nay vẫn ẩn núp trong máu huyết những người con họ Trần cả nước
nói chung, họ Trần Kỳ Lam nói riêng. Chuyện đối đầu và chính kiến trong
dòng họ không bao giờ xãy ra, dòng máu vẫn luôn trên hết, anh em là giọt
máu cắt phần mỗi người có một. Tổ tiên sẽ rất mừng vui với nếp nhà sáng
rỡ, anh em nhiều đời mãi thương nhau vì chung dòng máu tổ. Thêm nữa,
bản tính hiền hòa, nhân nghĩa luôn có trong lòng người họ Trần Kỳ Lam
cũng là một phước báu khéo dưỡng nuôi từ nhiều đời.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét