Một góc nhìn khác về thủy tổ của người Việt

Tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt.
 
Trích đăng bài viết của tác giả Hà Văn Thùy đăng tải trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An.


Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn!
Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?

I. Khởi đầu từ lịch sử
 


Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.
Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó(Việt bộ Qua -).20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa(Việt bộ Mễ -)!Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.

Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN... Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và  Miến Điện.

Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó  Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)

Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.
Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:  
Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước.

Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.

Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta.

Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?!

II.Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.
1.Quá trình hình thành
Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh...  Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?

Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…

2. Đôi lời nhận định
Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định  bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” - cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!

Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên... Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!

Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!

Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:
Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!

Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..”  Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…

III. Kết luận
Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế!
Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi  bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!
Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.
Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.
Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN



 
spacer

Chuyện vua Gia Long trả thù nhà Tây Sơn qua lời kể giáo sĩ Pháp

"Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn. Trước hết người ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ vua chết đã 10,12, năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần của vua đền bị quật lên...".





Trích dịch trong quyển: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine của Giáo sĩ La Bissachère viết năm 1807, và do Charles Maybon trình bày, Edouard Champion, Paris, 1920, trang 118-121.
 
Nguồn: Nguyễn Đắc Xuân, Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – Sơn lăng Hoàng đế Quang Trung (tái bản lần thứ 1), Nhà xuất bản Thuận hóa Huế – 2015, từ tr.358 đến tr.361)

Gia Long về Nam Hà, nghỉ ngơi vài tháng, rồi lo việc xử tội những kẻ vua đã bắt được làm tù binh(1). Tôi(2) có sai một người vào triều để xin một đặc ân; người đó được vào sổ những kẻ có phép vào trong cung điện cùng ở trước mặt vua trong một tháng, và đã có mặt trong ngày xử. Người đó mục kích các việc xảy ra từ đầu đến cuối. Khi về, người đó kể lại cho tôi; nhưng đây tôi không thể thuật hết các chi tiết, vì nó quá độc dữ, tôi chỉ kể ra những gì tôi nhớ được và có tính cách cảm động hơn của câu chuyện người đó nói lại, và nay ở Nam-hà ai cũng biết.

 

Chú thích:

(1) Ngày Gia Long hành hình Tây Sơn là ngày Giáp tuất, tháng 11, năm Nhâm Tuất, tức là ngày 30/11/1802

(2) Tôi: đây là giáo sĩ Bissachère, bấy giờ còn ở Nghệ An; khi giáo sĩ viết sách là năm 1807, và ở Luân Đôn.

(3) Vua trẻ Tây Sơn là Quang Toản.

(4) Em vua là Quang Thiểu.

(5) Thiếu phó: Trần Quang Diệu

(6) Bà Thiếu phó: Bùi Thị Xuân

(7) Khi vượt luỹ: nhắc lại chiến công oanh liệt của bà khi đánh Nguyễn Ánh ở luỹ Đồng Hới và gần thắng thì được tin Quang Toản đã chạy, nên phải lùi.
(8) Quan trấn thủ xứ Nghệ: Trần Quang Diệu
“Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn(3). Trước hết người ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ vua chết đã 10,12, năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần của vua đền bị quật lên. Người ta sắp các xương của Quang Trung, cha vua đó, và các xương của mẹ vua – là những kẻ chết đã 10 năm nay như tôi vừa nói – rồi người ta theo lệ bề ngoài chém cổ để làm sỉ nhục, và nhất là để các xương đó không còn sinh phúc cho con cháu, theo tục mê tín của người trong xứ. Rồi tất cả xương được dồn vào trong một cái giỏ lớn để binh sĩ đều tiểu tiện vào. Xong, người ta nghiền xương thành bột, bỏ vào một giỏ khác đặt trước mặt vua trẻ Tây Sơn để làm cho vua đó đau khổ.
“Bấy giờ người ta dọn cho vua một bữa tiệc khá long trọng, chiếu theo tục trong xứ đối với những kẻ sắp bị tử hình. Em vua(4), can đảm hơn vua, thấy vua ăn thì trách; và bởi vì mân người ta dọn đồ ăn bưng tới đó có những đặc điểm có ý tôn trọng chức vua, nên ông nói: “Nhà mình thiếu gì mâm, cần gì phải ăn mâm mướn”.
“Ăn xong, người ta nhét giẻ vào miệng vua và nhiều người khác để khỏi chửi mắng vua mới, đoạn trói chân tay vua vào bốn voi để cho voi xé. Một con voi đã kéo nát đùi và lòi gân vua ra, nhưng vua còn quay về cái giỏ chứa xương cha mẹ vua. Lý hình dùng một con dao, – dao này không có ở Âu châu, – để phanh các phần còn dính lại với nhau ra làm bốn phần, cọng với cái đùi đã xé ra nữa là năm. Người ta đem bêu các phần đó lên, ở đầu một cọc cao, tại năm chợ đông người hơn trong đô thành. Các cọc đó được canh giữ ngày đêm và người ta doạ phạt nặng những ai làm mất đi; nhưng phải để vậy cho thối ra hoặc cho quạ ăn.
“Còn về quan Thiếu phó(5), là kẻ được người trong gia đình cùng tất cả những kẻ quen thuộc yêu kính, quan đã làm một việc hiếu, trong ngày quan bị xử hay là ngày trước đó. Quan đã tâu được thấu đến vua rằng, mẹ quan già đã tám mươi tuổi, không thể nào làm hại cho xã tắc được nữa, nên xin vua tha chết cho bà, vì bà mang tội cũng là tại quan. Quan được như ý. Phần quan, chỉ bị chém thôi.”
“Quan có một cô gái mười lăm tuổi, đầy đủ các vẻ đẹp của một thiếu nữ. Khi cô thấy một con voi tiến về phía cô để rồi tung cô lên trời, cô thét một tiếng não ruột. Cô kêu mẹ, nói: “Mẹ ơi, cứu con với”. Mẹ cô, là vị nữ tướng, trả lời rằng: “Con đòi mẹ cứu làm sao, vì mẹ cũng không cứu được chính mình mẹ, và con nên chết đi với cha mẹ còn hơn là sống với bọn người kia…” Nhiều người muốn cứu cô, và họ quay mặt đi chỗ khác, khi voi, bị đánh đập, đã tung cô lên trời hai lần, rồi lấy ngà đỡ cô.
“Đến lượt bà Thiếu phó(6), bà hiên ngang tiến đến trước mặt voi để khiêu khích nó. Khi bà đến gần, người ta kêu lên bảo bà quì xuống cho voi dễ cuốn, nhưng bà không nghe, cứ đi thẳng đến voi. Người ta còn kể rằng dầu voi đã bị kích thích nhiều, cũng còn phải giục ép lắm, nó mới tung bà lên, dường như nó còn nhận được bà người chủ cũ của nó.
“Trước khi bị gia hình, người đàn bà can đảm đó đã bảo mang đến trong ngục cho bà nhiều tấm lụa. Bà lấy lụa vấn chặt ống chân cùng các phần thân thể bà cho đến trên bụng ở phía trong quần áo. Bà có ý làm thế để tránh bị trần truồng như các bà chịu tử hình cách đó thường bị.
“Người ta kể rằng, muốn được can đảm như bà, bọn lý hình lấy tim, gan, phổi, cùng cánh tay mập của bà mà ăn. Bà đã làm cho binh sĩ, cùng đến cả tướng lãnh của họ, khiếp sợ, khi bà vượt luỹ(7), nên người ta để các bộ phận bà cho bọn đó ăn. Ở Bắc Hà, thịt người được ăn sống với rượu (nhưng người ta chỉ ăn trong những dịp như thế này thôi).
“Người ta nói rằng chỉ có vị liệt nữ đó, cùng chồng bà, và em vua Tây sơn là không đổi sắc mặt khi giờ chết đến, còn các kẻ khác thì tái xanh đi và run sợ.
“Quan trấn thủ xứ Nghệ(8), một người vào hạng cao chức nhất, bị phanh thây ra nghìn miếng, vì người ta ghét ông hơn cả. Chính ông đã cho lùng bắt tôi hơn bảy năm và đã thề giết cho được tôi mới thôi. Ông muốn bắt tôi, vì biết tôi ở trong tỉnh ông. Ông cho đốt cụt ngón tay trỏ của một tín đồ người Nam Hà và của cô con gái người đó, để bắt họ thú là có tôi ở trong làng, mà điều đó thật có. Việc nầy xảy ra mấy tháng trước khi Bắc Hà bị vua chiếm”.

Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ


spacer

10 điều thú vị và bất ngờ về vua Lê Hiển Tông

Lê Hiển Tông tên thật là Lê Duy Diêu, theo mô tả của sử sách, ông là người mắt phượng, râu rồng. Khi còn làm Thái tử, ông đã phải chịu hoàn cảnh nguy hiểm, nếm trải nhiều gian khổ. Lên ngôi báu, Ông trị vì gặp lúc nước nhà nhiều loạn lạc, nhưng về sau xã hội trở lại yên ổn, dân an cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là đời thái bình. 

 
 Mặc dù không có nhiều công tích nhưng cuộc đời làm vua của Hoàng đế Lê Hiển Tông cũng có khá nhiều điều thú vị. 


1. Lê Hiển Tông là vị vua được lên ngôi một cách may mắn nhất. Khi còn là hoàng tử, vì có người chú là Lê Duy Mật nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, do đó ông bị Trịnh Giang nghi ngờ đem giam ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình” (Hoàng Lê nhất thống chí). Sáng hôm sau thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc cho là ứng vào giấc mộng của mình bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng.

2. Lê Hiển Tông sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), mất tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Ông là vị vua thọ nhất triều Hậu Lê.

3. Lê Hiển Tông là một trong những vị vua ở ngôi lâu nhất và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê. Ông lên ngôi tháng 5 năm Canh Thân (1740) và mất năm Bính Ngọ (1786), làm vua 46 năm.

4. Lê Hiển Tông là vị vua cho đúc và phát hành nhiều loại tiền nhất. Trong thời gian ở ngôi ông đã cho đúc 16 loại tiền khác nhau mang niên hiệu của mình, đó là: 1. Cảnh Hưng Thông Bảo, 2. Cảnh Hưng Trung Bảo, 3. Cảnh Hưng Chí Bảo, 4. Cảnh Hưng Vĩnh Bảo, 5. Cảnh Hưng Thái Bảo, 6. Cảnh Hưng Cự Bảo, 7. Cảnh Hưng Trọng Bảo, 8. Cảnh Hưng Tuyền Bảo, 9. Cảnh Hưng Thuận Bảo, 10. Cảnh Hưng Chính Bảo, 11. Cảnh Hưng Nội Bảo, 12. Cảnh Hưng Dụng Bảo, 13. Cảnh Hưng Lai Bảo, 14. Cảnh Hưng Thận Bảo, 15. Cảnh Hưng Ðại Bảo, 16. Cảnh Hưng Ðại Tiền.

5. Lê Hiển Tông là vị vua có nhiều con rể làm vua nhất. Ông có nhiều con gái, trong đó công chúa Ngọc Hân được gả cho Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung 1788 - 1792), công chúa út là Ngọc Bình gả cho Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh 1793 - 1802).
Năm Nhâm Tuất (1802) sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long (1802 - 1819). Khi chiếm được Phú Xuân, rung động trước sắc đẹp của Ngọc Bình, ông đã lấy bà làm phi. Như vậy vua Lê Hiển Tông có tới ba người con rể làm vua. Và trong số 3 người con rể ấy thú vị là có hai người là cha con: Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản!

6. Lê Hiển Tông là vị vua có niên hiệu được sử dụng lâu nhất, trong 46 năm làm vua ông chỉ đặt một niên hiệu là Cảnh Hưng. Đây là niên hiệu được sử dụng lâu nhất và điều đặc biệt nó còn được dùng cả một thời gian dài sau khi vua đã mất.
Vào thời đó, các "tập đoàn" phong kiến tranh giành lẫn nhau. Tại vùng kiểm soát của lực lượng chúa Nguyễn niên hiệu Cảnh Hưng vẫn được sử dụng trong các văn bản quản lý, chỉ đến khi Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn thì niên hiệu này mới không được dùng nữa. Sách Hoàng Lê nhất thống chí cho biết: Tháng 5, mùa hè năm ấy (tức năm 1802) chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu Cảnh Hưng, tức là từ năm Bính Ngọ (1786) trở về sau chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê. Năm Nhâm Tuất (1802) này, lúc đầu vẫn gọi là năm Cảnh Hưng, đến bây giờ mới đổi ra niên hiệu mới. Như vậy niên hiệu Cảnh Hưng được sử dụng tổng cộng trong 62 năm.

7. Ngoài các khoa thi Nho học, triều Hậu Lê còn mở khoa thi võ học với hai cấp Sơ cử và Bác cử. Bên cạnh hình thức tuyển chọn nhân tài võ thuật đó, thời Lê Hiển Tông còn bổ sung thêm một hình thức là đề cử được quy định lần đầu tiên vào năm Qúy Hợi (1743). Theo đó những năm không có khoa thi võ thì các quan võ từ cấp tam phẩm trở lên đều phải đề cử một người có tài, trí, mưu mô, khỏe mạnh, giỏi võ và quả cảm. Năm Canh Tý (1780) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên việc thi võ được quy định chặt chẽ, kỹ càng hơn trước. Phép thi được chia làm 4 kỳ: kỳ 1 thi giương cung, múa đao; kỳ 2 thi bắn cung, bắn súng; kỳ 3 thi phi ngựa bắn cung, đấu siêu đao, lăn khiêng, múa gươm, đâm giáo…; kỳ 4 thi văn sách.
Điều đặc biệt là bắt đầu từ đây lệ thi còn chú ý đến xét duyệt khí sắc, đó là tướng mạo, tiếng nói, sức chịu đựng sao cho thể hiện được sự hùng dũng, can trường.

8. Lê Hiển Tông là một trong số ít các vị vua giỏi âm nhạc, ngoài ra ông còn có rất nhiều tài khác. Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Nhà vua giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu, nhạc phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng.

9. Năm Canh Ngọ (1750) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học ở nước ta, các sĩ tử phải nộp lệ phí thi mới được tham dự thi Hương, khoản đó gọi là tiền thông kinh.
Lê Hiển Tông là vị vua cho mở nhiều khoa thi nhất trong lịch sử; thời gian ở ngôi ông đã cho mở 16 khoa thi, lấy đỗ 131 Tiến sĩ. Lê Hiển Tông là vị vua lấy bảng Tam khôi ít nhất. Suốt 42 năm, từ khoa thi đầu tiên của triều đại ông tổ chức năm Quý Hợi (1743) cho đến khoa thi cuối cùng tổ chức năm Ất Tỵ (1785) chỉ lấy đỗ một Bảng nhãn là Lê Quý Đôn và hai Thám hoa là Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh; không lấy ai đỗ Trạng nguyên.
Ông cũng là vị vua mở khoa thi lấy đỗ ít người nhất, đó là khoa thi năm Tân Sửu (1781), chỉ lấy hai người đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Cầu và Nguyễn Tân.

10. Năm Đinh Dậu (1777) vua Lê Hiển Tông cho ban hành bộ Quốc triều điều luật; bộ luật này được xây dựng trên nội dung cơ bản của bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) nhưng có bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với tình hình mới. Quốc triều điều luật là thành tựu lập pháp nổi bật nhất của thời Lê Trung Hưng (1533-1788) và cũng là bộ luật lớn nhất của thế kỷ XVIII.
Lê Hiển Tông cũng là vị vua cho ban hành bộ luật tố tụng đầu tiên của nước ta. Trước đó các điều khoản tố tụng chưa được phân định riêng mà vẫn nằm chung trong nội dung của các bộ luật. Đến năm Đinh Dậu (1777) bộ Quốc triều khám tụng điều lệ được ban hành, nội dung là những điều lệ về kiện tụng, quy định thẩm quyền các cấp xét xử, thời hạn xét xử, trình tự bắt người, điều tra, khám xét…

Theo DÂN VIỆT



spacer

BÍ ẨN VỀ QUANG TRUNG GIẢ THỜI TÂY SƠN

Vua Quang Trung
Sự tồn tại của triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, do đó mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử không kịp ghi vào sử sách. Chưa có một bộ sử chính thống của triều đình, đại loại như Đại Việt sử ký tục biên (của triều Lê trước đây) hay Đại Nam thực lục (của triều Nguyễn sau này). Muốn tìm hiểu thời kỳ Tây Sơn, triều đại Tây Sơn, chúng ta chỉ con cách tìm trong những ghi chép cá nhân (dã sử) hay nhặt nhạnh những ghi chép có liên quan đến triều đại Tây Sơn của các sử gia nhà NguyễSự tồn tại của triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, do đó mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử không kịp ghi vào sử sách. Chưa có một bộ sử chính thống của triều đình, đại loại như Đại Việt sử ký tục biên (của triều Lê trước đây) hay Đại Nam thực lục (của triều Nguyễn sau này). Muốn tìm hiểu thời kỳ Tây Sơn, triều đại Tây Sơn, chúng ta chỉ con cách tìm trong những ghi chép cá nhân (dã sử) hay nhặt nhạnh những ghi chép có liên quan đến triều đại Tây Sơn của các sử gia nhà Nguyễn (như Đại Nam thực luc, Đại Nam liệt truyện) hay những tư liệu, thư từ ngoại giao còn lưu lại.n (như Đại Nam thực luc, Đại Nam liệt truyện) hay những tư liệu, thư từ ngoại giao còn lưu lại.

Chính vì vậy mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử còn chìm trong bí ẩn. . Để làm sáng tỏ những bí ẩn đó, không phải ngày một ngày hai. Xung quanh sự kiện Quang Trung (giả) sang chầu vua nhà Thanh năm 1790, một sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” (lời người đương thời) trong lịch sử ngoại giao của dân tộc ta, vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Những câu hỏi đại loại như:

- Tại sao vua Thanh Càn Long chỉ yêu cầu một mình vua Quang Trung sang triều kiến mà cả hai cha con nhà vua cùng đi?
- Tại sao giữa đường Nguyễn Quang Thùy cáo ốm rồi trở về nước?
- Tại sao Phạm Công Trị là cháu vua, được chọn đóng vai Quang Trung giả, lại còn có Phạm Công Trị hộ tống Nguyễn Quang Thùy trở về nước, ngay khi vừa mới đi hết đất Lưỡng Quảng?
Bài viết này hi vọng làm sáng tỏ những bí ẩn về sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” có một không hai đó.

1. Lý do cần phải có Quang Trung giả.
Năm 1789, sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu, uy thế của triều đại Tây Sơn lên cao chưa từng thấy. Tuy nhiên, như vua Quang Trung từng nhận định: “Chúng là nước lớn gấp mười nước ta, sau khi bị nhục một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân” (Hoàng Lê nhất thống chí). Để tránh một cuộc binh đao “không bao giờ dứt” đó, đường lối ngoại giao của nhà Tây Sơn là khôn khéo, mềm dẻo, nhún nhường, linh hoạt. Nguyên tắc đặt ra là tránh những căng thẳng ngoại giao không cần thiết, có thể thỏa mãn những tiểu tiết, nếu điều đó không ảnh hưởng đến chủ quyền dân tộc, lợi ích quốc gia.

Về phía nhà Thanh, sau trận thua đau mùa xuân Kỷ Dậu, không khỏi hổ thẹn, nuôi chí phục thù. Tuy nhiên, đối với các quan lại địa phương sát biên giới nước ta (như Phúc Khang An, Thang Hùng Nghiệp. . .) họ đã thấy rõ sức mạnh của Tây Sơn, rất “ngán” một cuộc đụng độ tiếp theo mà bài học Tôn Sĩ Nghị còn đang nhãn tiền. Một cuộc đối thoại hòa bình dù sao cũng còn tốt hơn nhiều một cuộc đối đầu trực tiếp. Đó là điều mà hai bên có thể đi đến tiếng nói chung. Tuy nhiên, điều mà vua Càn Long nhà Thanh đặt ra là vua Quang Trung phải sang triều cận vua Thanh để tỏ ý “thần phục”. Đây thực chất là nhằm chữa thẹn cho vua Càn Long và triều đình nhà Thanh trước bàn dân thiên hạ của họ mà thôi. Trong thư của Phúc Khang An, viết theo lệnh của Càn Long, cũng thường nhắc tới yêu cầu này, coi như điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ hai nước : “Chú ngươi (tức vua Quang Trung- PDK chú) đều có thiên lương và cũng là người hiểu biết. Phải nên muôn phần cảm kích, vui mừng, nếu không tự mình tới kinh để chiêm ngưỡng thiên nhan, khấu đầu cảm tạ ơn lớn thì lấy gì bày tỏ lòng sợ trời thờ nước lớn, thành kính cung thuận?” (Trích thư của Phúc Khang An gửi Nguyễn Quang Hiển tháng 5-1789) (Lịch triều tạp kỷ). Và “ Mùa xuân sang năm , bản đường ở trong cửa quan đợi Quốc trưởng để cùng vào triều cận, cúi đầu lạy chỗ cung khuyết nhà vua , giãi bày lòng thành thực” ( Đại Việt quốc thư)

Thế nhưng, đối với vua Quang Trung thì điều đó là không thể được. Bởi vì, từ xưa chưa có một vị vua nào của nước ta lại chịu sang chầu vua một nước khác. Từ Đinh, Lý, Trần, Lê đến bây giờ đều thế. Đây là nguyên tắc ngoại giao, là thể diện quốc gia. Vì vậy cần phải có một “vua giả” sang chầu là điều mà các nhà thương thuyết của cả hai bên sớm đi đến thống nhất. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này là một sự mạo hiểm chết người. Bởi nếu lộ ra thì quan hệ giữa hai nước được xây dựng, được vun vén hàng năm trời nay có nguy cơ bị đổ bể. Kéo theo đó là một số quan lại nhà Thanh dính líu trong vụ này sẽ chịu tội rất nặng với triều đình nhà Thanh, có thể đến mức tử hình (vì mang tội khi quân). Chính vì vậy mà việc bố trí một đoàn sứ bộ hộ tống “vua giả” phải cực kỳ thận trọng, phải tính đến từng chi tiết nhỏ. Một vở kịch phải đóng không phải ngày một ngày hai mà là hàng năm trời (thời gian đi sứ, cả đi và về thường hơn 1 năm!)

2. Tại sao đoàn sứ bộ lại phải có hai cha con: Vua Quang Trung và Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy
Trong đoàn sứ bộ Tây Sơn sang triều cận vua Thanh nhân bát tuần đại khánh (mừng thọ 80 tuổi) của vua Thanh ta thấy có “vua giả” do Phạm Công Trị đóng. (Theo Quốc sử quán triều Nguyễn thì vào tháng 10 Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cũng cho Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả ra Thăng Long nhận sắc phong của vua Thanh. Như vậy đây là lần thứ hai, Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả). Đoàn còn có Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy (thật). Võ thần có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, văn thần có Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn. . . Tổng số thành viên trong đoàn có 159 người. Tuy nhiên , khi mới đi hết địa phận Lưỡng Quảng thì Nguyễn Quang Thùy bị ốm, không đi tiếp được phải về nước dưỡng bệnh. Trong số những người tháp tùng Hoàng tử về nước dưỡng bệnh có Phạm Công Trị. Điều này sứ đoàn ngoại giao của ta đã có tâu báo với vua Càn Long, và đích thân Càn Long đã ra chỉ dụ, trong đó viết: “Nguyễn Quang Thùy ít tuổi, người yếu, đi xa muôn dặm lại thêm phần khó nhọc , lũ Phúc Khang An cho phái bồi thần nước ấy là Đặng Văn Chân cùng cháu gọi vua nước ấy bằng cậu là Phạm Công Trị đi kèm để ra khỏi cửa quan, dặn phải điều trị cho khéo, điều đó là rất phải” (Đại Việt Quốc Thư, tr.271 ). Đây chính là diều làm nhiều nhà nghiên cứu thắc mắc, cho rằng Phạm Công Trị đã về nước theo Nguyễn Quang Thùy rồi, đâu còn ở lại trong đoàn mà đóng vai “vua giả”. Tác giả Nguyễn Thế Long trong cuốn Bang giao Đại Việt triều Tây Sơn (Nxb VHTT,2005, tr.69) sau ghi sự kiện này, cũng đi đến kết luận: “Trong tờ dụ này có nói đến cháu vua là Phạm Công Trị cùng đi trong đoàn và khi Nguyễn Quang Thùy ốm thì cùng với Đặng Văn Chân đưa về, vì vậy , từ xưa đến nay đều nói người đóng giả vua Quang Trung là Phạm Công Trị  có lẽ không đúng”. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong cuốn Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến (Nxb CAND, 2007) cũng đặt vấn đề nghi vấn: “Theo Liệt truyện thì vua giả là Phạm Công Trị , người có mặt ở Gia Định năm 1783. Rắc rối là trong sứ bộ năm 1790 lại có tên Phạm Công Trị đã đến Quảng Tây mà vì Nguyễn Quang Thùy bị bệnh, phải hộ tống trở về” . Vậy thì tại sao lại có sự lạ lùng như thế. Muốn hiểu điều này, chúng ta lại phải trả lời câu hỏi: -Tại sao vua Càn Long chỉ yêu cầu có một mình vua Quang Trung sang chầu mà Quang Trung lại “thật thà” và “quá sốt sắng” đi cả hai cha con?”. Trả lời câu hỏi này cũng chính là làm rõ vì sao có Phạm Công Trị về nước theo Nguyễn Quang Thùy.

Chúng ta biết, việc cử “vua giả” sang chầu Càn Long là một điều bắt buộc, một sự vạn bất đắc dĩ bởi nó là sự mạo hiểm chết người đối với các nhà ngoại giao của cả hai bên, và ảnh hưởng rất lớn đến thành quả ngoại giao mà hai bên đã gặt hái được trong quá trình phấn đấu hàng năm trời. Vì vậy, việc tính toán kỹ lưỡng , chi tiết cho cho chuyến đi này là vấn đề sống còn của cả hai bên. Có ai dám chắc rằng , trong cả quá trình đi hàng mấy tháng trời qua rất nhiều địa điểm đón tiếp, không phạm phải những sơ suất mà chân tướng vua giả sẽ lộ ra? Ai dám đảm bảo rằng , trong số rất nhiều vong thần nhà Lê, những kẻ tử thù của Tây Sơn hiện đang nhan nhản ở vùng sát biên giới (bên phía Trung Quốc) nhận diện ra Quang Trung giả rồi lu loa lên để phá hoại công cuộc bang giao? Chính vì vậy mà Nguyễn Quang Thùy chính là nhân vật chính của phương án 2, nếu phương án 1 là Quang Trung giả bị bại lộ. Ở đây ta thấy cái tài khôn khéo của các nhà ngoại giao Tây Sơn, đó là trong giả có thật, trong thật có giả. Quang Trung là giả, nhưng con Quang Trung là Quang Thùy lại là thật. . Và khi giả (phương án 1) bị bại lộ thì thực (phương án 2) sẽ thay thế, quyết không để cho công cuộc bang giao bị đổ bể. Tình huống cụ thể ở đây là, trong đoàn ngoại giao có ghi tên Phạm Công Trị (người có thực đang đóng vai Quang Trung) nhưng người mang tên Phạm Công Trị lại là một người khác (có thể chỉ là một nhân vật vô danh, một người lính chẳng hạn) . Đặt trường hợp Quang Trung giả bị phát hiện là Phạm Công Trị , thì tất nhiên ông phải nhận mình là Phạm Công Trị, tên tuổi ông đã được ghi rõ ràng trong danh sách ngoại giao đoàn. Lúc đó thì “Quang Trung” đành phải cáo ốm mà trở về nước, ủy thác lại cho Nguyễn Quang Thùy tiếp tục công việc. Các nhà ngoại giao Tây Sơn sẽ thác lời Quang Trung mà làm một tờ biểu trần tình lên Càn Long, đại khái nói : Tiểu phiên (Quang Trung thường tự xưng với Càn Long như thế-PDK chú) vì không quen thủy thổ, bị ốm dọc đường, tình thế rất khẩn thiết, nay ủy cho con trai tôi là Nguyễn Quang Thùy thay mặt Tiểu phiên đến chầu hầu Đại Hoàng đế. Tiểu phiên lòng xiết bao sợ hãi, xin được xá tội. . .” Đại loại là như thế. Lúc ấy Quang Trung “giả” sẽ về nước. Người tháp tùng Quang Trung “giả” sẽ là Phạm Công Trị, lúc này sẽ lấy tên thật. Còn ai sẽ là Quang Trung “giả” trong vai vua ốm? Đó chính là người vô danh đội tên Phạm Công Trị lúc ra đi. “Người vô danh” này không cần phải giống Quang Trung, bởi vì dọc đường về, do “vua” bị ốm nên sẽ ở trong xe (hoặc kiệu) được buông rèm kín không lộ diện để “tránh nắng gió”, đó là lý do hợp lý không ai phản bác được. Tuy nhiên, điều chẳng may bị lật tẩy đó đã không hề xẩy ra. Đoàn vượt biên giới Lạng Sơn vào ngày 13-4 Canh Tuất (1790). Đầu tháng 5 thì đi hết địa phận Lưỡng Quảng. Sự việc diễn ra êm đẹp. Từ đây, khi đã vào sâu trong nội địa Trung Quốc thì mối lo bị lộ tẩy do các vong thần nhà Lê hay các thế lực thù địch với Tây Sơn không còn nữa. Có nghĩa là phương án 2 không cần đến. Lúc này, Nguyễn Quang Thùy phải trở về nước. Nguyễn Quang Thùy được phong tước Khang Công, đang lĩnh chức Tiết chế thủy bộ ở Bắc Thành (tức chỉ huy toàn bộ quân đội ở phía Bắc) ông còn nhiều việc phải làm. Phạm Công Trị trong vai Quang Trung giả cũng không có gì sơ suất, cần phải “quên” cái tên Phạm Công Trị đi. Vì vậy, “người vô danh” mang tên Phạm Công Trị trong dịp này cũng trở về với Nguyễn Quang Thùy. Như vậy, dù thực hiện phương án 1 (Quang Trung giả) hay phương án 2 (Hoàng Tử thật) thì cái tên Phạm Công Trị cũng phải được xóa bỏ trong danh sách Đoàn ngoại giao trước khi triều kiến vua Càn Long. Đó là lý do vì sao chúng ta thấy trong số những người tháp tùng Nguyễn Quang Thùy về nước lại có tên Phạm Công Trị.

3. Chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế.
Đây là nhận xét của Đoàn Nguyễn Tuấn, một thành viên trong sứ đoàn ngoại giao 1790. “Lạ lùng” là như chúng tôi đã phân tích ở trên. Thực mà hư, hư mà thực, trong thực có hư, trong hư có thực. Những nhà thiết kế chuyến đi này không chỉ bố trí người đóng vai Quang Trung giả mà cả người đội tên của người đóng vai Quang Trung giả, tức là phải hai lần giả: Quang Trung giả và Phạm Công Trị giả. Và, nếu vạn bất đắc dĩ bị lộ tẩy thì Phạm Công Trị (thật) sẽ đứng ra nhận tên mình để khỏi bị đổ bể. Đó chính là sự bố trí thần tình của chuyến đi ngoại giao đầy bí ẩn này !
Thế rồi Quang Trung “giả” đã không bị bại lộ. Phái đoàn sứ bộ của ta đã thành công mỹ mãn. Vua Càn Long đã tỏ ra rất trân trọng , rất chu đáo với “Quang Trung”. Trên đất Trung Quốc phái đoàn đi đến đâu cũng được đón tiếp long trọng như là đón vua thật. Thậm chí khi Càn Long nhận được quà biếu là quả vải tươi, đã cho chạy ngựa trạm vượt hàng ngàn dặm, đem đến biếu Quang Trung lúc ấy đang trên đường đi. Xem số quả vải tươi được biếu (5 quả) , trong đó vua Quang Trung được 2 quả, Phúc Khang An được 2 quả và Ngô Văn Sở được 1 quả, đủ thấy nhà Thanh quý quả vải tươi như thế nào, và tầm cỡ của người được biếu vải.

Khi phái đoàn của Quang Trung (giả) đến Nhiệt Hà để ra mắt Càn Long, vua Thanh đã tặng An Nam Quốc vương một viên ngọc Như ý, một tòa Ngọc phật , tặng cả đoàn một vạn lạng bạc, tặng Ngô Văn Sở một cái mũ san hô tam phẩm (tức công nhận Ngô Văn Sở ngang hàng quan tam phẩm nhà Thanh) .Ngày 20 tháng 8 Canh Tuất (1790) vua Thanh đặt tiệc tiễn Quang Trung về nước. Khi “Quang Trung” vào bệ kiến để từ biệt, Càn Long đã mời vào bên giường ngự, vỗ vai thân mật , sai họa sĩ cung đình vẽ một bức chân dung Quang Trung để tặng . Càn Long lại tự tay viết 4 chữ đại tự “Củng cực quy thành” ( Chầu về sao Bắc đẩu với tất cả lòng trung thuận, thành thực). Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép lại: “Khi Quốc vương tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết là Quang Trung giả. Lúc Quốc vương vào yết kiến, vua Thanh cho ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối, hệt như tình cha con trong nhà. Lúc Quốc vương lạy tạ về nước, vua Thanh sai thợ vẽ bức truyền thần mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.”


Theo Đại thanh thực lục thì số tiền nhà Thanh bỏ ra để chi tiêu vào việc đón tiếp Quang Trung trong suốt đợt đi sứ hết 80 vạn lạng bạc (con số này có thể bị khai khống lên để các quan lại địa phương có dịp bớt xén. Nhưng việc gửi quà, việc đón tiếp của Càn Long đối với Quốc vương An Nam là hết sức ân cần, chu đáo, điều đó không phải bàn cãi). Nhận xét về chuyến đi sứ này, nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn , một thành viên của sứ bộ viết: “Từ trước đến nay, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”

Như vậy là từ mùa xuân 1789 đang là kẻ thù không đội trời chung (ta đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, đuổi chúng chạy dài về nước), hơn một năm sau, năm 1790 hai nước đã trở lại quan hệ hữu hảo với nhau, coi nhau là đồng minh tin cậy, đó chính là thành tựu ngoại giao mà triều đại Tây Sơn đã đạt được. Trong một năm rưỡi ngắn ngủi đó, từ thù thành bạn, đó không phải là điều lạ lùng sao? Mà điều lạ lùng nhất , chính là sự kiện ngoại giao năm 1790, sự kiện Quang Trung giả, đỉnh cao của thành tựu ngoại giao thời Tây Sơn.
 Ảnh: Chân dung vua Quang Trung giả do họa sĩ cung đình nhà Thanh vẽ năm 1790.

Nguồn: vanhoadongho .vn
spacer

Phát lộ văn bia của dòng họ Vũ Khắc ngành

Tảng đá cổ nặng chục tấn nhọn như mũi giáo được khắc một bản văn tự toàn chữ Hán nằm giữa vườn khiến gia chủ và người dân ở xóm 9, xã An Sơn sợ hãi.

Hàng chục năm nay, người dân xóm 9, xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) cũng như gia đình bà Mạc Thị Xuân rất hoang mang trước tảng đá cổ hình thù kỳ dị giống đầu mũi tên đá khổng lồ, một mặt được khắc toàn chữ Hán nằm trong vườn nhà. Tảng đá có phần thân hình chữ nhật, 4 cạnh bằng nhau, dài khoảng 3m, nằm trên đất, một mặt được khắc chữ Hán. Phần đầu là chóp nhọn cao 1m, trong đó có 3 mặt để trơn, một mặt khắc 21 vạch song song và đều nhau.
Tảng đá lớn nhọn một đầu nhằm trong vườn nhà bà Mạc Thị Xuân, xóm 9, xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng). Ảnh: Giang Chinh
Bà Mạc Thị Xuân cho hay năm 1990, gia đình bà ra chân núi Thiên Triều khai hoang, sinh sống, một năm sau thì làm nhà. Khi đó tảng đá lớn nằm án ngữ giữa vườn nên gia đình định chuyển bỏ. Tuy nhiên, khi đi xem thầy, xem thợ, họ khuyên không nên đụng vào bởi đó là tảng đá thiêng được trấn yểm.
Gia đình bà Xuân càng sợ hãi khi các cụ cao tuổi kể lại, vào đầu thập niên 80, ông Huân, người trong xóm không nghe người dân khuyên can, vác búa ra đập để lấy đá về làm nhà đã gặp chuyện không may. Mới quai nhát búa đầu tiên, một miếng đá vỡ găm thẳng vào chân, khiến ông phải nhập viện điều trị. Về sau, không hiểu vì lý do gì, ông Huân chuyển nhà đi nơi khác sinh sống.
Thêm vào đó, một số người lạ nghe nói về tảng đá cũng đã tìm về ngó nghiêng, rồi âm thầm rút đi, càng khiến người dân nơi đây tin rằng đó là bùa yểm của người xưa. Kể từ đó đến nay, gia đình bà Xuân không dám “xâm phạm” đến tảng đá.
Văn tự bằng chữ Hán trên tảng đá cổ nặng cả chục tấn đang được gia đình bà Mạc Thị Xuân lưu giữ. Ảnh: Giang Chinh
Cụ ông Trần Gia Viễn, một bậc cao niên trong xóm 9, cho hay tảng đá xuất hiện ở chân núi Thiên Triều từ bao đời nay. Cụ Viễn chỉ biết khi lớn lên đã thấy nó nằm đó. Còn trong hang núi, cách tảng đá này không xa có một tảng đá hình vuông khá lớn cũng được đục đẽo bằng tay. Thời kỳ chiến tranh, hang là nơi du kích và nhân dân trú ẩn. Thời gian này, hang bị giặc đánh mìn, khiến đá sập xuống lấp mất cửa hang.
Để giải mã tảng đá cổ và bản văn tự chữ Hán, cụ Ngô Đăng Lợi, nguyên Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Hải Phòng, được mời về khảo cứu. Sau khi cọ rửa, làm sạch lớp rêu phong, các chữ dần hiện ra, nhà sử học dịch và cho biết tảng đá này thực chất là văn bia của dòng họ Vũ Khắc ngành 2. Nội dung văn bia cho thấy, ngày 18 tháng 9 năm Quý Tỵ (năm Vua Đồng Khánh thứ 15), chi trưởng Vũ Khắc của dòng họ này đã về vùng đất này lập nghiệp, rồi khắc văn bia thay cho gia phả để nhắc nhở các con cháu về sau không quên tổ tông, nguồn cội…

Sau khi khảo cứu, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết tảng đá cổ là văn bia của dòng họ Vũ Khắc ngành 2 và nó được chế tác, khắc chữ Hán cách đây hơn 100 năm. Ảnh: Giang Chinh.
Còn về 21 vạch kẻ tại đầu nhọn của văn bia, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho rằng nhiều khả năng đây là ký hiệu cho thấy ông chi trưởng ngành 2 là đời thứ 21 của dòng họ Vũ Khắc.
Sau khi tảng đá được “giải oan”, gia đình bà Mạc Thị Xuân cũng như người dân trong xóm thở phào, không còn lo sợ.
Hiện văn bia vẫn đang được gia đình bà Xuân lưu giữ tại vườn.

spacer

Kho báu trong lăng Thoại Ngọc Hầu: Khắc tên trên bảo vật trấn quốc


Chỉ đến khi kho báu đồ sộ trong lăng mộ ông được khai quật và giải mã, người ta mới hình dung phần nào đời sống của nhân vật lẫy lừng này.

Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829, tên thật là Nguyễn Văn Thoại) là tướng lĩnh thân cận của chúa Nguyễn Ánh (sau này là vua Gia Long triều Nguyễn). Ông được người dân Nam bộ rất mực tôn kính vì có công lớn trong việc lập làng lập ấp, giữ yên và phát triển miền Tây; là người chỉ huy đào kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế, hai con kênh hết sức quan trọng trong việc phát triển giao thương.
Ngay khi Thoại Ngọc Hầu và bà chính thất Châu Thị Vĩnh Tế còn sống, tên ông bà đã được đặt cho núi (Thoại sơn, Vĩnh Tế sơn), tên sông (Thoại hà, Vĩnh Tế hà) và còn được khắc lên Cửu đỉnh - bảo vật trấn quốc của triều Nguyễn đặt trong hoàng thành Huế ngay trước miếu thờ các vua Nguyễn. Sau này, tên ông bà còn tiếp tục được đặt cho các đơn vị hành chính (H.Thoại Sơn, xã Thoại Giang, thôn Thoại Sơn, xã Vĩnh Tế...), tên khu du lịch Hồ ông Thoại, khu dân cư Ngọc Hầu, Châu Đốc, nhiều trường học, đường sá và cây cầu tại 7 tỉnh (An Giang, Kiên Giang, Đà Nẵng, TP.HCM, Gia Lai, Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế). Tổng cộng, có tới 7 loại hình và 40 cơ sở trên toàn quốc mang tên ông và bà.
Kho báu bí mật suốt 180 năm
Lăng Thoại Ngọc Hầu uy nghi tọa lạc tại P.Núi Sam, TP.Châu Đốc, tỉnh An Giang. Khu vực chính có 3 ngôi mộ lớn: mộ ông nằm ở giữa, một bên là phu nhân chính thất Châu Thị Vĩnh Tế ngang bằng với mộ ông, mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt được xây lùi xuống một chút. Đã hơn 180 năm kể từ khi ông qua đời, khói nhang trong lăng mộ chưa bao giờ tắt.
Một điều kỳ lạ là cho đến trước khi phát hiện, trong dân gian hầu như không có những huyền thoại lưu truyền về đồ tùy táng của đức Thoại Ngọc Hầu. Thậm chí những ký ức về cuộc sống gia đình ông cho đến nay cũng không còn dấu vết, đặc biệt là khu vực dinh quan bảo hộ (ông từng giữ chức Thống chế Bảo hộ Cao Miên), nơi sinh sống của gia đình Thoại Ngọc Hầu lúc đương thời cũng chưa xác định được chính xác. Chỉ đến năm 2003, kết quả khảo sát mới cho thấy có dấu hiệu dinh quan bảo hộ cũ hiện nay nằm trong khu vực doanh trại Quân đội nhân dân VN ở Châu Đốc.
Cũng trong hơn 180 năm đó, lăng Thoại Ngọc Hầu đã trải qua nhiều nhiệm kỳ của nhiều ban quản lý và hàng chục lần trùng tu sửa, nhưng tuyệt nhiên đã không có một phát hiện hoặc một ghi chép nào về đồ tùy táng của Thoại Ngọc Hầu. Điều đó chứng tỏ hậu nhân của ông, những người được giao sứ mạng chôn cất các di vật, đã giữ bí mật một cách tuyệt đối khối di sản quý giá này trong lòng đất.
Những mảnh vàng của chiếc mão hổ đầu thu được sau khi khai quật
Khối lượng di vật to lớn, quý giá
Ngày 20.9.2009, trong quá trình tu bổ lăng mộ, khi dọn dẹp mặt bằng để chuẩn bị lát gạch chung quanh, công nhân thuộc Công ty Hà Phúc đã phát hiện một lằn phui sụp xuống. Sự việc được báo cáo cho Ban Quản lý khu di tích Lăng miếu núi Sam và Bảo tàng An Giang. Sau khi khảo sát, ban quản lý và Bảo tàng An Giang nhất trí rằng khả năng có khu vực chôn đồ tùy táng là rất lớn, lập tức xin phép UBND tỉnh và Sở VH-TT-DL An Giang tiến hành khai quật khu vực này.
Sau 4 ngày, cuộc khai quật khẩn cấp đã thành công. Số lượng hiện vật thu được rất lớn: hơn 500 hiện vật và hàng trăm tàn tích đồ gỗ, đồ vải, đồ kim loại... Hiện vật phong phú và đa dạng, gồm nhiều chất liệu: vàng, bạc, đồng, đồng tráng men (pháp lam), sắt, antimony, gỗ, gốm sứ, thủy tinh, đá, ngà, xương, răng, nanh hổ, vỏ ốc...; cổ vật thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19 thuộc nhiều nước: VN, Trung Quốc, Xiêm La (Thái Lan), Chân lạp (Campuchia), Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha ... Với số lượng hiện vật quý giá như trên, có thể nói phát hiện khảo cổ học tại lăng mộ Thoại Ngọc Hầu rất độc đáo và thú vị. Bởi cho đến nay, những phát hiện đã công bố về đồ tùy táng của các quan lại đại thần phong kiến VN, thậm chí của cả vua nữa, chưa từng có nhân vật nào vừa có công lao, tài đức mà còn để lại một khối lượng di vật to lớn, quý giá và phong phú như vậy. Các hiện vật này đã giúp phần nào hình dung về cuộc sống của tầng lớp quan lại cấp cao VN đầu thế kỷ 19 tại khu vực biên giới phía Tây Nam.
Phạm Hữu Công
spacer

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt

Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.

Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.

Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.

Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.


Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán

Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.

Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.

Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.

Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:

* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:

* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:

* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.

(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.

1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1


CHÚ DẪN

1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml

越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.

3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。

#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html

 The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina

5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)

6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.

7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.

8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.

9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).

10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.

11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.

12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).

13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.

14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).

#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.

16 叶榆水

17岱依人

18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.

19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.

20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.

21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!

22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.

23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.

24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).

25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.

#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên

27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.

28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.


* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.

Trần Gia Ninh

spacer
do