Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng

“Tìm lại huy hoàng” phần 3.1: Ba lần chuyển sinh của Tiên Chúa Liễu Hạnh

“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Nguồn ảnh internet

Liễu Hạnh Tiên Chúa (thời Hậu Lê) vốn là con gái thứ 2 của Ngọc Hoàng Thượng Đế, 3 lần giáng trần để ngàn đời được tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật.

spacer

“Tìm lại huy hoàng”: Tứ bất tử của Việt Nam, họ là ai?

“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Gia Phả
nguồn ảnh internet

Người xưa quan niệm rằng: phàm là những ai được lưu danh trong sử sách, thì đều là đã được Thần an bài điều đó với mục đích lưu lại lịch sử văn hóa nhân loại, giáo dục con người đời sau không quên nguồn cội và các giá trị đạo đức nhân sinh. Trước khi trở thành những vị Thánh nhân, những vị Thần Tiên như trong sử sách và các câu chuyện cổ, những vị ấy cũng đã từng một lúc nào đó làm người, đóng các vai trò khác nhau trong xã hội như một người mẹ, một người vợ, một người con… Thế nhưng, theo chuyện kể, trước khi hạ thế làm người, họ vốn dĩ đã là Thần Tiên trên thiên thượng rồi. Vậy ý nghĩa của việc này là gì?
“Tứ bất tử” của Việt Nam đã định ra nền tảng văn hóa tín ngưỡng Phật Đạo Thần và đạo lý làm người.
Tiếp theo phần 1 và phần 2 về nguồn gốc loài người và lịch sử hình thành đất Việt, con cái của Lạc Long Quân và Âu Cơ là các vị vua Hùng dựng lập đất nước, dạy người dân biết làm nương, làm rẫy, nấu cơm, thổi lửa, dựng vợ, gả chồng…, những kỹ năng cần thiết để sinh tồn và bảo toàn nòi giống. Tiếp theo đó, con người còn cần phải học những gì?

spacer

Ấn triều Trần treo ở đâu cho đúng

Nhiều người xin được lộc ấn triều Trần nhưng sử dụng thế nào cho hợp cách, đúng phong thủy cũng như tâm linh thì ít người để ý. Thông thường mọi người hay đặt hay treo lên bàn thờ, như vậy là sai lầm. Nếu để lên bàn thờ thì sẽ là thờ ấn, chứ không phải thờ ông bà tổ tiên. Ngoài ra, để ấn lên bàn thờ sẽ không phù hợp theo tâm linh, cũng như trường khí.

1. Kiểm tra, xác định trường khí
Trường khí dương là trường khí tốt cho con người, giúp cơ thể minh mẫn, sảng khoái, làm việc hiệu quả hơn. Trường khí âm là trường khí xấu, do máy đo báo. Khi có trường khí âm, con người tiếp xúc nhiều sẽ hay đau đầu, tâm lý không ổn định, dễ cáu gắt, khó tập trung, hay nôn nóng… Từ đó ảnh hưởng xấu đến hành vi, học tập hay công việc.

Dán ấn ở chính Bắc, ở gần két để hỗ trợ tăng tài lộc. Ảnh: Mạnh Linh.
Ở phòng thí nghiệm, kiểm tra năng lượng trường khí của 10 mẫu ấn mới nhất cho thấy:
- Đặt nằm ngang trên bàn, năng lượng ở mức bình thường, trong đó 3 trường hợp âm, 7 trường hợp dương.
- Khi gấp lại, cả 10 ấn đều có trường khí âm rất mạnh.
- Dán lên tường, trường khí dương tăng cao, không có trường khí âm.
Kiểm tra thêm các mẫu khác, khi gấp đều có trường khí âm; nếu dán thẳng đều chuyển thành trường khí dương.
- Nếu đo trường khí, thông qua phổ màu cho thấy năng lượng thích hợp nhiều cho hệ miễn dịch và thần kinh, tăng cường sức sống. Đo bằng thiết bị điện từ trường, trường khí trung bình của ấn từ 400 đến 430 MHz. Điều này cho thấy ấn triều Trần có thể dùng trong phong thủy.

2. Cách dùng cụ thể
- Không nên: Không đặt lên bàn thờ, như đã nói ở trên. Không dán hướng vào nhà vệ sinh, dán trên tường nhà vệ sinh. Không gấp để trên bàn, càng không nên gấp để ví, để trên ôtô, vì có trường khí âm dễ gây ra sự cố khi đi lại.
- Nên: Dán trên tường hoặc đóng trong khung ảnh treo lên tường. Nếu không quan tâm đến phong thủy, bạn có thể treo gần vị trí làm việc. Đặt tại cơ quan hay phòng làm việc ở nhà đều được. Nên hướng vào mình, hay hướng vào tủ sách, hoặc có thể hướng ra cửa.
Nếu muốn sử dụng hiệu quả hơn theo phong thủy, tùy theo mục đích sử dụng mà dán ở các vị trí khác nhau, như năm 2015 để tăng tài lộc thì dán ấn ở chính Bắc, nếu để hỗ trợ nghề nghiệp, học hành dán ở Tây Bắc.

Nguyễn Mạnh Linh 
spacer

Giải mã: Kho báu bị yểm bùa ở đảo Lý Sơn

Những dấu tích của vua Lê ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) dù không nhiều nhưng có nhiều nét độc đáo, đặc biệt là nằm trong sự xâu chuỗi mối quan hệ với người Chăm. Có thể từng có nhiều người Chăm được tham gia đội quân thân cận của vua Lê. Cùng với đó là chuyện về kho báu bị yểm bùa của người Chăm (hay còn gọi là người Hời) vẫn còn như tươi mới trong tâm trí nhiều bậc cao niên nơi đây. Nhiều bí ẩn vẫn chưa được vén mở.

Núi Hòn Tươi, nơi được cho là chứa kho báu

spacer

Vén màn bí ẩn ngôi huyệt đế vương và những dấu tích còn lại - kỳ 2

Giai thoại phát tích của nhà Trần vẫn là một câu chuyện chưa đến hồi ngã ngũ. Sử sách ghi chép rất rõ ràng các sự kiện, nhưng trong dân gian lại tồn tại quá nhiều thuyết khác nhau. Thậm chí, trong một tài liệu chính thống cũng ghi chép về những câu chuyện đầy huyền hoặc này.

Ba ngôi mộ lớn được cho là phần mộ của vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông tại Thái Bình ngày nay (ảnh tư liệu).
Vậy đằng sau vẻ bí ẩn của ngôi huyệt quý kia là gì? Chúng ta có thể thấy gì nếu soi chiếu dưới cái nhìn khoa học về hiện tượng phi khoa học này?

spacer

Giai thoại về ngôi huyệt phát tích nhà Trần và thực hư con sông làm đứt long mạch đế vương

Hiện nay, tư liệu còn lưu lại hai thuyết chính nói về ngôi huyệt phát tích nhà Trần. Một thuyết nói rằng, ngôi huyệt phát kết là do thầy phong thủy Tàu đặt đất. Thuyết nữa thì nói rằng ngôi huyệt do thầy phong thủy bí ẩn người Việt tìm thấy. Vậy thầy phong thủy nào trong số hai người trên mới đích thực là “chân nhân”, góp phần tạo nên một trong những vương triều lẫy lừng bậc nhất trong lịch sử?

Đền thờ các vua Trần tại Thái Bình ngày nay.

spacer

NHO GIÁO VIỆT NAM VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

Chương 1
KHÁI QUÁT VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRIẾT HỌC NHO GIA

1.1      Khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử  (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước.

Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng  - vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương -  ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.

            Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì trệ.

spacer

Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc

Thuật ngữ quốc tế “folklore” – Văn hóa dân gian, được W J.Thom sử dụng đầu tiên vào năm
1846 để chỉ “phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ… của người thời trước”. Từ đó đến nay, bộ môn văn hóa dân gian học đã ra đời và phát triển với ba trường phái lớn: trường phái phôn-clo Anh – Mỹ chịu ảnh hưởng nhân học, trường phái phôn-clo Tây Âu chịu ảnh hưởng xã hội học (điển hình là Pháp – Italia) và trường phái phôn-clo Nga chịu ảnh hưởng ngữ văn học.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “folklore” đã được sử dụng từ lâu và tùy theo mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là “văn học dân gian”, “văn nghệ dân gian” và nay là “văn hóa dân gian”. Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ sang tiếng Việt khác nhau như vậy là do sự thay đổi nhận thức của chúng ta về văn hóa dân gian và cũng do sự tiếp thu ảnh hưởng của các quan niệm folklore từ các trường phái khác nhau trên thế giới.

Hiện nay ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu triển khai công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên các lĩnh vực sau:

Ngữ văn dân gian bao gồm: Tự sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ… Trữ tình dân gian (ca dao, dân ca); Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian

Nghệ thuật dân gian bao gồm: Nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian…); nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn…)

Tri thức dân gian bao gồm: Tri thức về môi trường tự nhiên (địa lý, thời tiết, khí hậu…); tri thức về con người (bản thân): y học dân gian và dưỡng sinh dân gian; tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng); tri thức sản xuất (kỹ thuật và công cụ sản xuất)

Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội: Các lĩnh vực nghiên cứu trên của văn hóa dân gian nảy sinh, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp, thể hiện tính chưa chia tách giữa các bộ phận (ngữ văn, nghệ thuật, tri thức, tín ngưỡng phong tục…), giữa hoạt động sáng tạo và hưởng thụ trong sinh hoạt văn hóa, giữa sáng tạo văn hóa nghệ thuật và đời sống lao động của nhân dân. Để nghiên cứu văn hóa dân gian với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp chúng ta cần phải có một quy phạm nghiên cứu tổng hợp.

Văn hóa dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, khi nhận thức, lý giải các hiện tượng văn hóa dân gian phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hóa của nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó cộng đồng gia tộc, cộng đồng làng xã giữ vai trò quan trọng.

Văn hóa, trong đó có văn hóa dân gian là sản phẩm của sự phát triển xã hội nhất định. Tuy nhiên, sau khi hình thành và định hình, văn hóa tác động trở lại xã hội với tư cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”, là “động lực và mục tiêu của sự phát triển xã hội”.

Việt Nam là một trong các quốc gia Đông Nam Á có những nét văn hóa dân gian đặc trưng. Đó là truyền thống văn hóa truyền miệng, khác với Trung Quốc và Ấn Độ là truyền thống văn hóa chữ viết.

Văn hóa dân gian Việt Nam có truyền thống hình thành, và phát triển từ rất lâu đời, bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình thì văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với quần chúng lao động.

Truyền thống lịch sử và xã hội Việt Nam đã quy định những nét đặc trưng của văn hóa nước ta. Đó là văn hóa xóm làng trội hơn văn hóa đô thị, văn hóa truyền miệng lấn át văn hóa chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn duy lý, chủ nghĩa yêu nước trở thành cái trục của hệ ý thức Việt Nam, nơi sản sinh và tích hợp các giá trị văn hóa Việt Nam…

Ngày nay, đất nước chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả nước đang phấn đấu thực hiện những mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Namtiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong bối cảnh chung như vậy, một lần nữa chúng ta thấy nổi bật vai trò của văn hóa dân gian trong văn hóa dân tộc và trong đời sống xã hội.

1 – Văn hóa dân gian – cội nguồn của văn hóa dân tộc

Người ta thường nói văn hóa dân gian là “cội nguồn của văn hóa dân tộc” là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”. Điều đó hàm nghĩa văn hóa dân gian gắn với lịch sử lâu đời của dân tộc, là nguồn sản sinh và tiếp tục nuôi dưỡng văn hóa dân tộc. Nói văn hóa dân gian là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ” còn là vì văn hóa dân gian nảy sinh, tồn tại dưới dạng nguyên hợp, các bộ phận còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Hoài Thanh thì “Từ thủa sơ sinh, nhạc, thơ, múa và kịch đều chung một mâm. Đến khi lớn lên thì các loại hình tách bạch ra, nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau. Thơ dân gian tồn tại, phát triển và lưu truyền bằng hát đối đáp. Nếu bỏ nhạc thì múa khó thành. Mất sự tích văn học, mất làn điệu, mất múa thì chèo cũng mất. Tranh Đông Hồ cũng phải đi liền với hội tết”.

Có con người là có văn hóa, có dân tộc là có văn hóa dân tộc. Văn hóa đó trước nhất là văn hóa dân gian, văn hóa của quần chúng nhân dân. Qua văn hóa dân gian, nhân dân lao động “tự biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của mình”. Các nền văn hóa khảo cổ thuộc xã hội nguyên thủy như Hòa Bình, Đông Sơn tuy không phải là văn hóa dân gian, nhưng lại là nguồn cội để hình thành văn hóa dân gian.

Đến thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ hình thành nền văn hóa dân tộc, thì trước hết đó là văn hóa dân gian, văn hóa của nhân dân lao động. Họ “tự biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của mình” ở thời kỳ khởi nguồn của đất nước.

Thời kỳ Đại Việt (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX), cùng với sự phát triển xã hội, văn hóa dân tộc không còn thuần nhất mà bên cạnh văn hóa dân gian đã xuất hiện văn hóa chuyên nghiệp, bác học, cung đình. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có mối quan hệ tác động qua lại: Văn hóa dân gian vẫn là cội nguồn nuôi dưỡng văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình; văn hóa bác học, chuyên nghiệp, văn hóa cung đình tác động trở lại, góp phần nâng cao và định hình văn hóa dân gian. Hiện tượng Truyện Kiều của Nguyễn Du, sách Nam dược thần diệu của Tuệ Tĩnh thể hiện sự tác động qua lại đó.

Từ quan điểm cho rằng văn hóa dân gian là cội nguồn của văn hóa dân tộc thì trong hoạt động thực tiễn nhằm bảo tồn và chấn hưng văn hóa dân tộc chúng ta phải bắt đầu từ văn hóa dân gian.

2 -Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc

Có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, và tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, tức là sức sống và sự từng trải của dân tộc. Nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng và trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử.

Vậy, bản sắc văn hóa là gì? Đó là tổng thể các giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước, với các giá trị đặc trưng mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Do vậy, muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái gì trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn.

Từ quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam, như là chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, tinh thần cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn hóa…, tính duy tình (tình thương) trong các cư xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong ứng xử với tự nhiên…

Một thí dụ về một nét bản sắc của văn hóa và của con người Việt Nam, đó là tính cởi mở, năng tiếp nhận và dễ hòa nhập để từ đó bản địa hóa các nhân tố ngoại lai. Cốt cách này của văn hóa và con người Việt Nam được tạo nên có lẽ là do “số phận” lịch sử của dân tộc và đất nước Việt Nam nằm ở ngã tư con đường giao lưu và hội nhập chủng tộc và văn hóa. Trong các giai đoạn phát triển kế tiếp của ba nền văn hóa: Đông Sơn – Đại Việt và Việt Nam, thì có hai giai đoạn chuyển tiếp văn hóa mang tính bản lề: giai đoạn Bắc thuộc (từ thế kỷ I đến thế kỷ X), giao tiếp giữa văn hóa Đông Sơn với văn hóa Hán để sau đó ra đời văn hóa Đại Việt và giai đoạn Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX đến năm 1945), giao tiếp giữa văn minh Đại Việt với văn hóa phương Tây mà đại diện là văn hóa Pháp, từ đó tạo nên sự phong phú của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Từ năm 1945 đến nay, văn hóa Việt Nam còn mở rộng giao lưu với văn hóa Nga, Mỹ, Trung Quốc và nhiều nước khác trên thế giới. Trong điều kiện giao lưu văn hóa sống động như vậy, đã tạo nên ở con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam một thái độ ứng xử không đóng kín, chối từ, mà cởi mở, tiếp nhận, hòa nhập. Thái độ hiếu học của con người Việt Nam là để tự cường vươn lên, để đổi đời, để sánh vai với bạn bè năm châu. Khả năng tiếp nhận cái của người khác, biến đổi nó (bản địa hóa) thành cái của mình, phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình, là bản sắc và sức mạnh của con người Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Điều này tạo ra tính mềm dẻo, năng động, dễ thích nghi của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó cũng có mặt trái của nó thể hiện ở sự nhiễu loạn, tính tùy tiện, nửa vời trong ứng xử và tiếp thu văn hóa của con người Việt Nam.

Khi nói đến bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, chúng ta không thể quy tất cả về văn hóa dân gian, tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận vai trò hết sức to lớn của văn hóa dân gian đối với việc hình thành bản sắc văn hóa dân tộc. Trước hết, sự ra đời và định hình của văn hóa dân gian gắn với những giai đoạn sớm nhất của lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ văn hóa Đông Sơn – Hùng Vương dựng nước, thời kỳ mở đầu của lịch sử dân tộc, lịch sử quốc gia và lịch sử văn hóa Việt Nam, thời kỳ “nhất thành” để sau đó “vạn biến”. Văn hóa dân gian là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”, tức văn hóa khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức phát triển cao sau này, như văn hóa chuyên nghiệp, bác học, cung đình. Văn hóa dân gian còn là văn hóa của quần chúng lao động, mang tính bản địa, tính nội sinh cao. Tất cả các nhân tố kể trên khiến cho văn hóa dân gian hàm chứa và thể hiện tính bản sắc cao của văn hóa dân tộc.

Nếu cho rằng văn hóa dân gian chứa đựng và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, thì trong thực tiễn việc bảo tồn, làm giầu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước nhất phải từ việc bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hóa dân gian.

3 – Văn hóa dân gian – hệ giá trị và biểu tượng của văn hóa dân tộc

Trong văn hóa học giá trị và biểu tượng làm nên những cái cơ bản của văn hóa, nó là nội hàm của khái niệm văn hóa. Nói cách khác, văn hóa không phải là tất cả những gì mà con người tạo ra, mà chỉ những cái đã được chắt lọc, kết tinh, thăng hoa thành các giá trị, và biểu tượng.

Giá trị và biểu tượng cũng là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Có thể nói, giá trị kết tinh và làm nên cái cốt lõi của biểu tượng. Hay nói cách khác, trong mỗi biểu tượng người ta đều tìm thấy giá trị hay hệ thống các giá trị văn hóa. Thí dụ, trong biểu tượng Quốc tổ các Vua Hùng ta thấy các giá trị và tâm thức về cội nguồn và cố kết cộng đồng dân tộc, một trong những nét đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Hệ giá trị của văn hóa dân tộc, trước nhất tiềm ẩn trong văn hóa dân gian. Chúng thể hiện trên nhiều bình diện, như ứng xử của con người với môi trường tự nhiên theo hướng nặng về thích ứng và hòa hợp hơn là chế ngự và biến đổi. Cách ứng xử này còn thấy ở cách ăn, mặc, ở, đi lại, quan hệ cộng đồng… Còn biết bao những giá trị văn hóa dân tộc mà ta có thể tìm thấy trong kho tàng tri thức dân gian liên quan tới môi trường, dưỡng sinh trị bệnh, tri thức về sản xuất và quản lý cộng đồng.


Các biểu tượng của văn hóa chủ yếu gắn với văn hóa dân gian. Hệ biểu tượng này hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài và quy định những hành vi ứng xử của cộng đồng.

Ta có thể nói tới biểu tượng “đất nước” trong văn hóa Việt Nam vừa mang tính nội sinh: “đất” và “nước” hai yếu tố cơ bản tạo nên canh tác lúa của cư dân nông nghiệp; vừa mang tính ngoại sinh: “quốc gia” mô hình của văn minh Trung Hoa.

Quốc tổ các Vua Hùng – biểu tượng về cội nguồn, về tâm thức “uống nước nhớ nguồn”, mà căn cỗi của nó là tục thờ cúng tổ tiên ở mỗi gia tộc, dòng họ. Biểu tượng “tứ bất tử” (bốn vị thần bất tử): Chử Đạo tổ, Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh mẫu Liễu Hạnh, đó là hệ ý thức nhân sinh Việt Nam hình thành do đòi hỏi xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến tự chủ, nhất là từ thời Lê…

Văn hóa dân gian với hệ giá trị và biểu tượng của nó đã làm nên cái gọi là tâm thức dân gian, tâm hồn dân tộc. Những cái đó, tới lượt nó quy định các hành vi, tình cảm, hoài vọng của con người. Bởi vậy, để nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm dân tộc, xây dựng và củng cố các biểu tượng của dân tộc, chúng ta cũng phải bắt đầu từ Văn hóa dân gian.

Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa, hơn lúc nào hết chúng ta phải bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc – coi đó như là căn cước của chúng ta hội nhập và giao lưu quốc tế. Cần nhận thức rõ vai trò của văn hóa dân gian với tư cách là cội nguồn, bản sắc, là hệ giá trị và biểu tượng của văn hóa dân tộc.

Ngô Đức Thịnh

* GS, TS, Viện Văn hóa dân gian
spacer

Dân gian ngũ hổ

Hổ có vị trí thống trị trong giới động vật, nên nhân dân ở một số nước phương Đông đã thần thánh hóa loài này.

Ngu Ho

Ở Trung Quốc, hổ là biểu tượng của sự dũng mãnh. Hình mặt hổ được dùng phổ biến để trang trí giáp, trụ của các quan văn, võ.

Ở nước ta, trước kia các cụ không dám kêu đích danh con hổ mà chỉ dám gọi chệch đi: “ông kễnh”, “ông ba mươi” hay “ông hùm” vì sợ “ngài” giận. Ngôi đền nào cũng có đắp tượng hổ ở cửa vào, coi như “thần tướng gác đền” và thần tướng này cũng được khách đi lễ thắp hương, khấn vái. 

Trong quan niệm dân gian, nước ta cũng xem hổ tượng trưng cho sức mạnh. Người dân đã thần thánh hóa hổ, cho nó một sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập. Bởi vậy, hình tượng hổ trở thành phổ biến trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, được vẽ thành tranh để thờ cúng ở các đền, điện. 
Ngu Ho tho cung

Sau này, tranh dân gian Hàng Trống lại nghĩ thêm ra bộ “Ngũ hổ tướng” và lập bàn thờ trong đền. Có nhiều loại tranh hổ: bạch hổ, hắc hổ, ngũ hổ… Trong đó, tranh “ngũ hổ” là nổi bật hơn cả. Tranh “ngũ hổ” còn gọi là tranh “ông Năm dinh”, tượng trưng cho năm vị thần tướng ngự trị năm phương trời, nên các nghệ nhân khi vẽ tranh hổ, ngoài chòm râu ánh mắt dữ tợn của hổ được vẽ bằng màu vàng kim, dân gian còn vẽ 5 màu nhất định, tượng trưng cho trung tâm và bốn hướng với bố cục cân đối: 

1. Hoàng hổ tướng quân, màu vàng, trấn nhậm trung khu (địa khu) 

2. Hắc hổ tướng quân, màu đen, trấn nhậm bắc khu (thủy khu). 

3. Bạch hổ tướng quân, màu trắng, trấn nhậm tây khu (kim khu). 

4. Xích hổ tướng quân, màu đỏ, trấn nhậm nam khu (hỏa khu). 

5. Thanh hổ tướng quân, màu xanh, trấn nhậm đông khu (mộc khu). 

Bộ tranh dân gian “Ngũ hổ tướng” dựa một phần vào sự kiện có thật. Trong thiên nhiên, đôi khi con người cũng gặp hổ màu trắng hay đen. Đây là hiện tượng “bạch biến” hay “hắc biến” của nhiều loài thú rừng. Màu đen do sắc tố đen trong lông làm thành. Nếu toàn bộ lông bị sắc tố này chi phối, hổ sẽ có màu đen tuyền. Nếu toàn bộ sắc tố này bị hủy, lông sẽ có màu trắng. Còn hổ xanh, hổ đỏ là do người ta thêm thắt vào cho hoàn chỉnh bộ ngũ hổ. Thật ra, sắc tố màu xanh hay màu đỏ rất hiếm ở các loài thú, hiện mới chỉ thấy ở loài khỉ. 

Trong tranh ngũ hổ, các nghệ nhân tranh Hàng Trống còn tô vẽ thêm các đám mây ngũ sắc với các đường cong gãy khúc nối nhau, lớp trong, lớp ngoài cuồn cuộn gợi cảm giác thần bí, thiêng liêng. Đây cũng là mục đích của tranh Tết, tranh thờ. Tranh ngũ hổ có sự phối hợp đường nét, hình khối đầy sức sống mãnh liệt, miêu tả hổ với thân hình vạm vỡ, chắc chắn khỏe trên thế ngồi vững chắc của hai chân trước. Người vẽ tranh đã thổi được cái hồn của nghệ sĩ vào trong tranh của mình mới sinh động, đa dạng và hấp dẫn người xem./.

VĂN CÚNG  THỈNH NGŨ HỖ TƯỚNG QUÂN

Thần cung thỉnh
Ngũ-Phương Ngũ-Đế, Ngũ-Hổ oai linh
Tướng ở thiên-đình con Vua Đế-Thích
Ngày thời triều-trực ở chốn điện-tòa
Xông đột vào ra thần thông dũng mãnh
Ngày nay có lệnh Phật-Thánh chỉ-truyền
Văn tế ngũ hỗ

Sai xuống nhân gian Thạch Bàn chốn ấy
Tướng thời lừng lẫy có phép thần thông
Rảo khắp tây đông cứu dân độ vật
Nay tôi phụng sự Phật-Thánh độ cho
Thỉnh tướng về thờ cho linh cho mạnh
Nghe lời tôi thỉnh khuya sớm đêm ngày
Có việc bằng nay trừ tà trị bệnh
Làm cho dũng mãnh hỏa tốc như lôi
Hỡi Quan Tướng ôi là tật tốc giáng
Rày tôi đội lệnh thiên-đình
Thỉnh triệu các tướng oai linh đáo đàn
Hoặc là ở thượng-ngàn vui thú
Hay là về đất tổ thanh ba
Nghe tôi luyện tập thời về
Phi phong hỏa tốc phải trì phép công
Trấn phương Đông sai quan Thanh Hổ
Tróc Mộc-tinh lưới bủa ghê thay
Quan Bạch sai trấn phương Tây
Xu trừ kim khí ghê thay lạ dường
Quan Xích trấn Nam phương Ly Ngọ
Tróc Hỏa-tinh lưới bủa ngục trung
Bắc phương Quan Hắc oai hùng
Xu trừ thủy khí hiện-hung gia-hình
Trấn trung-ương sai Quan Quỳnh Hổ
Lệnh bài sai phá thổ thạch-tinh
Ngũ phương Ngũ Hổ oai linh
Nghe Thánh hạ lệnh tùy hành tùy sai
Cứ lời tôi hiện hình biến tướng
Thính hịch văn giáng hạ đàn trung
Dù ai thiếp tính phụ đồng
Giáng phù giáng trượng pháp công chẳng rời
Bắt ăn tươi nội tà ngoại tý
Tuân lệnh hành tróc quỷ trừ ma
Đằng vân giá vũ ai qua
Phục thi cố khí đều tra gia hình
Nhãn song tinh hào quang lóng lánh
Mình tròn dài, dũng mãnh ai đương
Lưng eo thắt đáy dịu dàng
Đôi vai thiên trụ tà càng sợ kinh
Lông mày xanh đôi tay lẫm-trúc
Tiếng hét hầm quỷ khốc tà kinh
Vốn xưa tướng ở rừng xanh
Nghe lời tôi thỉnh lệnh hành chớ lâu
Đã đắc-đạo cùng nhau khuya sớm
Bén lửa hương nào dám quản công
Nào khi tướng giáng đàn trung
Tôi cùng Quan-tướng mấy đông chẳng rời
Tướng cùng tôi đồng tâm hiệp lực
Việc sai hành chẳng được trì-diên
Nay tôi đắc đạo Thánh truyền
Nghe lời tụng chú thỉnh liền thần thông
Đáo tịnh trung oai-nghi xuất-hiện
Tuân lệnh hành biến hiện phân minh
Tróc tam danh thượng thiên thần nữ
Thấu tứ phương thủy-phủ động-đình
Sai câu ngoại đạo tam danh
Sơn tiêu Thổ-địa âm binh đẳng thần
Tróc tà sư kỳ binh phản ác
Tướng đáo đàn tài võ quá nhơn
Ăn tươi cho hết tà thần
Nào là chư Tướng khâm sai lệnh hành
Các Quan kéo đến điện đền
Năm mươi Hổ-Tướng anh linh đáo đàn
Trên đầu có chữ sắc phong
Hai tay có chữ tứ tung ngũ hoành
Tróc tà quỷ mỵ yêu tinh
Đem ra chém quách hồn kinh đùng đùng
Lại bắt các đãng gian hung
Gia hình trị tội thạch công làu làu
Ôn hoàng dịch lệ đâu đâu
Thành-Hoàng xã lệnh nhiệm mầu hư không
Thần kỳ các xứ Thổ-công
Oai linh củng phục anh hùng tiếng vang
Quỳ tâu phục vọng các quan
Phò trì đệ tử thiên ban cát tường.
Cát Xướng Thiên Thu Vạn Vạn Tuế. (3 lần).

spacer

Thờ linh thú của người Việt tại các cơ sở đình, đền, miếu ở Bình Phước - Tư Liệu

Tín ngưỡng thờ linh thú của người Việt tại các cơ sở đình, đền, miếu ở Bình Phước

Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những nét đẹp mang tính nhân văn của người Việt có mặt ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Người dân tỉnh Bình Phước cũng duy trì nét tín ngưỡng đó như một sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử văn hóa đặc sắc, gắn liền với sức sống và sự phát triển của một vùng đất, kết tinh từ quá trình định cư và cộng cư. Đồng thời, thể hiện lòng biết ơn, sùng bái của cộng đồng cư dân trước thiên nhiên từ những ngày đầu mở đất.
Theo sử liệu, người Việt bắt đầu đến Bình Phước lập nghiệp vào khoảng giữa thế kỷ XVII, sau đó là những đợt di cư rải rác trong các thể kỷ XVIII, XIX và nhiều nhất là vào thời gian thực dân Pháp bắt đầu khai thác các đồn điền cây công nghiệp đầu thế kỷ XX. Hầu hết những người Việt đến mưu sinh ở Bình Phước vào lúc ban đầu đều là nông dân nghèo, những người chống đối bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn Bắc Bộ, những nông dân miền Trung mất đất canh tác vì không chịu nổi sưu thuế nặng nề của triều đình. Quá trình khai hoang, mở ấp, lập làng của họ diễn ra trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm “rừng thiêng nước độc”, phải băng rừng lội suối vạch lau sậy. Nhiều người đã phải bỏ nơi này về quê cha đất tổ để làm ăn sinh sống... còn những người ở lại cố gắng vượt qua, tạo ra các niềm tin bằng việc lập ra đền, chùa, đình, miếu để cầu được sự che chở, đi kèm theo đó là tục thờ các linh thú để có được sự an tâm trong cuộc sống buổi đầu đến đây khơi dựng cơ nghiệp.
Tục thờ thần Hổ
Xưa kia, vùng đất Bình Phước còn hoang vu, rừng rậm có nhiều thú dữ, đặc biệt là cọp. Chúng thường xuyên xâm phạm đến con người và phá hoại vật nuôi của cư dân trong xóm làng. Từ đó, tín ngưỡng thờ thần Hổ xuất hiện, nhằm tạo niềm tin bình an yên ổn cho cư dân buổi đầu khai hoang lập ấp. Chính từ tín ngưỡng đó mà tập tục xưa đã  để lại trong làng xã rằng hội đồng kỳ mục chỉ được cử đến chức Hương Chủ, còn chức Hương Cả là chức vụ cao nhất đứng đầu của làng phải dành cho Cọp. Trước đây, hàng năm trong các dịp lễ, người dân trong làng đều phải biện vật phẩm cúng thần Hổ gồm trà, rượu, nhang đèn, thịt heo sống, trứng gà, vịt sống… Người ta cho rằng nếu ai vi phạm lệ tục này thì bị cọp về móc họng chết. Không những thế, dân làng phải làm lễ bầu Ông rồi cúng cho ông Cả Cọp một cái thủ vị và dâng tờ cử chức Hương Cả. Mãi đến khoảng gần cuối thế kỷ XIX, tục lệ này mới được bãi bỏ.
Việc thờ thần Hổ cũng dựa trên truyền thuyết dân gian rằng ở mỗi cụm rừng đều có một vị chúa tể chốn sơn lâm, được coi là thần Hổ. Vị thần Hổ này thống lĩnh các loài thú trong rừng, góp phần giúp đỡ và bảo vệ mùa màng cho dân làng có được cuộc sống được ấm no hạnh phúc, nhà nhà yên ổn người người an vui và cũng còn có chức năng hộ vệ cho vị Thành hoàng Bổn cảnh.
Ngày nay, tại nhiều đền, đình, miếu ở Bình Phước vẫn còn có chỗ để thờ ông Cả Cọp. Nhiều nơi đặt bức bình phong một mặt có khắc hình Cả Cọp, thường được dựng ở trước cửa vào gian chánh điện theo quan niệm phong thủy, vừa che chắn những điều không hay, vừa tạo sự kín đáo cho công trình phía trong, cũng có khi bức bình phong này được đặt trước sân. Một số nơi còn lập riêng một miếu nhỏ với hoa văn trang trí, bát hương, và bài vị đặt bên, ghi “Sơn Quân chi thần”, “Lý Nhị Đại tướng quân”, “Sơn lâm Hổ lang chi thần”, “Mãnh hổ Đại tướng quân”, “ Ngũ Hổ Đại tướng quân”. Những hình thức thờ tự này vẫn còn thấy tại nhiều nơi trong tỉnh Bình Phước như đình thần Hưng Long, huyện Chơn Thành; đình Tân Lập Phú, phường Phú Thịnh, huyện Bình Long; đình Thành Hoàng, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng; đình Tân Khai, huyện Hớn Quản; đình Thanh An, xã Thanh An, huyện Hớn Quản; đền thờ Trần Hưng Đạo xã Thanh Phú, huyện Bình Long; đền Đức Thánh Trần, phường Hưng Chiến, Bình Long; các miếu Ông Hổ ở phường Phú Đức, huyện Bình Long và ở xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản...

Hổ Trấn

Bình phong thờ thần Hổ tại đền đức thánh Trần ở xã Thanh Phú, 
huyện Bình Long, Bình Phước
Tục thờ Rồng
Theo sách Thuyết văn giải tự, trong 389 loài bò sát có vảy thì rồng là loài đứng đầu và có sức mạnh vô song. Rồng tượng trưng cho sự sinh sôi mạnh mẽ, là biểu tượng của phương Đông (tả Thanh long) và của mùa xuân. Rồng được miêu tả với nhiều dáng vẻ, tùy thuộc vào sự tưởng tượng phong phú của từng cộng đồng, từng dân tộc và luôn biến đổi theo thời đại hoặc không gian cư trú. Rồng là con vật có sự kết hợp của chín loài vật khác: đầu lạc đà, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, bàn chân của hổ.
Trong tâm thức của người Việt, rồng không hẳn là linh vật dành riêng cho nhà vua hay hoàng gia. Con rồng Việt đã vượt khỏi chốn cung cấm, xuất hiện ở hầu khắp đình chùa, miếu… trong dân gian. Ngày trước, nhà nước phong kiến vẫn có những quy định khá chặt chẽ trong việc sử dụng hình tượng con rồng. Chẳng hạn, từ thời Lê - Trịnh đến thời Nguyễn, chỉ có vua và thái tử mới được sử dụng hình ảnh rồng năm móng; các hoàng tử thứ hai, thứ ba và thứ tư chỉ được dùng hình ảnh rồng bốn móng; từ hoàng tử thứ năm trở xuống chỉ được dùng hình ảnh rồng ba móng hay các biểu tượng gần gũi của rồng như con giao, con cù. Con rồng trang trí trong các đình chùa của dân gian cũng chỉ có bốn hoặc ba móng.

Tran Phong

Thờ rồng tại đình Tân Lập Phú, huyện Bình Long, Bình Phước

Rồng cũng xuất hiện trong các đình đền, chùa, miếu ở Bình Phước như đình Tân Lập Phú, đình Tân Khai, đình thần Hưng Long, đình Thành Hoàng ở huyện Bù Đăng… Rồng được thể hiện nơi ngai điện, trên bức liễn hoặc bức bình phong thể hiện sức mạnh của thần linh, là chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi.
Tục thờ Hạc và Rùa
Hạc và rùa cũng xuất hiện nhiều trong các ngồi đình, đền, miếu ở Bình Phước. Theo truyền thuyết thì rùa và hạc là đôi bạn thân thiết. Rùa vốn là con vật sống dưới nước và có thể bò trên mặt đất. Hạc là sinh vật sống trên cạn nhưng lại biết bay. Khi trời làm mưa lũ gây ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Những hình ảnh này tượng trưng cho lòng chung thuỷ và sự giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn giữa những người bạn tốt. Cũng theo truyền thuyết thì rùa và hạc đều là những sinh vật có tuổi thọ và là những hình ảnh tượng trưng cho sự thanh cao thoát tục.
Rùa là con vật đứng hàng thứ ba trong tứ linh “long, lân, quy, phụng” của người Việt Nam từ xa xưa. Theo truyền thuyết trong lịch sử dân tộc ta, rùa đã có nhiều thành tích trong việc dựng nước và giữ nước, như truyền thuyết Thần rùa Kim Quy giúp An Dương Vương làm nỏ thần đánh thắng kẻ thù Triệu Đà và xây dựng thành Cổ Loa hay chuyện rùa thần đã giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh… Những truyền thuyết đó đã nhắc nhở những người dân từ Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Thanh-Nghệ-Tĩnh đi khai phá vùng đất Bình Phước mang theo tín ngưỡng thờ thần rùa. Hiện nay, hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa cũng được thấy ở các ngôi đình như đình thần Hưng Long, đình Tân Lập Phú, đình Tân Khai… như thể hiện khát vọng trường tồn và những ước muốn thanh cao của người dân Bình Phước trong cuộc sống từ xưa cho đến nay được lưu giữ cho đến muôn đời sau.
Hoàng Nguyên


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí tỉnh Sông Bé, Nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé
2.Sơn Nam (2006), Đình Miếu lễ hội dân gian miền Nam, Nhà xuất bản Trẻ
3.Trương Văn Khôi (2013), Tín ngưỡng thờ linh thú của người Việt tại các cơ sở tín ngưỡng ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giáo dục và truyền thông với việc phát huy văn hóa dân gian Nam Bộ, Ban tuyên giáo Trung ương Đồng Nai – Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, Chi hội văn nghệ dân dân Đồng Nai, tr 75-76
4.Trần Đức Anh Sơn (2011), Những linh thú đất Việt, đăng trên báo baothuathienhue ngày 24 tháng 3 năm 2011.
5.Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay, Nhà xuất bản Đồng Nai.
spacer

Những tri thức thiếu chính xác và một số điều cần trao đổi trong những cuốn sách viết về văn hóa Việt Nam

Những tri thức thiếu chính xác và một số điều cần trao đổi trong những cuốn sách viết về văn hóa Việt Nam


 Kiều Thu Hoạch 
      LTS: Viện Nghiên cứu văn hóa đang chủ trì biên soạn bộ sách Lịch sử văn hóa Việt Nam gồm 6 tập. Tạp chí Văn hóa dân gian đã đăng nhiều bài thảo luận từ những vấn đề có tính chất lý luận, phương pháp luận và phương pháp đến những vấn đề văn hóa cụ thể (xin xem: Tạp chí VHDG số 2, số 4, số 5 năm 2005; số 3, số 4 năm 2006; số 4, số 5, số 6 năm 2007; số 2, số 3 năm 2008). Lần này, chúng tôi tiếp tục công bố bài của GS. TS. Kiều Thu Hoạch. Mong nhận được sự quan tâm rộng rãi của giới nghiên cứu.
      Nếu biên soạn lịch sử văn hóa Việt Nam, một mặt chúng tôi tán thành việc tiếp cận văn hóa sử Việt Nam từ “cái tổng thể”, nhưng mặt khác, theo thiển nghĩ, cũng rất cần  tiếp cận từ “cái cụ thể” như góp ý của Trần Nho Thìn: “Chỉ có thể khái quát đầy đủ về văn hóa dân tộc khi sự khái quát dựa trên những  nghiên cứu nghiêm túc các lĩnh vực văn hóa chuyên biệt” (Trần Nho Thìn: “Từ góc độ của người nghiên cứu văn học, thử đề xuất phương hướng nghiên cứu văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6/ 2006).


 Việc Trần Nho Thìn nói đến “những nghiên cứu nghiêm túc các lĩnh vực văn hóa chuyên biệt” là rất đúng, bởi lâu nay không phải tác giả nào cũng cẩn trọng khi nói đến những tri thức văn hóa cụ thể. Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu một số tri thức thiếu chính xác của các tác giả như sau.
      1. Trước hết là nhà sử học Đào Duy Anh, trong sách Lịch sử cổ đại Việt Nam (Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2005), ở tr. 54, cụ viết “chữ lạc  hay là chỉ một loài hậu điểu ở miền Giang Nam, tương tự với loài ngỗng trời. Có thể  chim lạc là vật tổ của người Lạc Việt”. Trong Thể thao & Văn hoá số 66 (17/8/2004), chúng tôi có bài  trao đổi với ông Lê Văn Lan, nhân đọc bài của ông “Chim Lạc hay cò? Hãy gọi đúng tên” đăng trên thể thao & Văn hóa số 4, 5, 6 (13/1/2004). Bài viết của chúng tôi đã ghi cả bốn chữ mà ta đều đọc là lạc:  鵅,駱,雒,貉(với các bộ thủ: điểu, mã, chuy, trãi). Theo tra cứu của chúng tôi, thì bốn chữ này đều là ghi âm Hán của từ Việt cổ (rác, đrác, đác) còn thấy trong tiếng Mường, chỉ nước. (Giống trường hợp: My Linh/ Ma Linh/ Mê Linh ghi địa danh Mlinh thời Hai Bà Trưng). Còn nếu xét theo nghĩa thì:
Lạc  駱 bộ   là ngựa trắng bờm đen
Lạc  bộ truy là ngựa đen bờm trắng.
Hai chữ này  đều là chữ Kinh Thi (thiên Lỗ tụng), đều không hề có nghĩa chỉ loài chim, như cụ Đào giải thích. Chính vì vậy, chúng tôi đã căn cứ theo phương pháp ngữ âm học lịch sử để giải thích đó chỉ là những chữ mượn âm Hán để ghi âm  tiếng Việt cổ, chứ không thể máy móc giải thích theo nghĩa chữ Hán được. Và như thế, cả hai chữ đều chỉ loài ngựa (nếu hiểu theo ngữ nghĩa), chứ không chỉ hậu điểu (loài chim di trú) nào cả. (Sai lầm của cụ Đào đã kéo theo cả Trần Ngọc Thêm trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (1997), tr. 276). Bài báo của chúng tôi đã được dư luận hoan nghênh, đồng tình, và ngay số báo sau, Thể thao & Văn hóa số 67 (20/8/2004) đã có bài của Văn Bình chia sẻ luận điểm của chúng tôi.
      2. Nguyễn Đăng Thục trong sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998), tr. 67, khi giới thiệu về thơ vịnh Trống đồng, đã viết “Bồ Tát Tôn Quang Hiến vịnh về Nam man có câu: Đồng cổ dữ man ca/ Nam nhân kỳ trại đa".Kỳ trại in lầm kỳ tài. Viết như thế chứng tỏ tác giả không nắm được tri thức cụ thể về lịch sử văn học Trung Quốc. Nguyên gốc đây là một bài từ làm theo điệu “bồ tát man” vốn là tên một nhạc khúc ở Giáo phường đời Đường (1); còn tên tác giả bài từ là Tôn Quang Hiến, người thời Ngũ đại (907 – 906). Vậy phải dịch là “Tôn Quang Hiến thời Ngũ đại, có bài từ vịnh trống đồng theo điệu bồ tát man như sau”. Đáng tiếc hơn nữa là còn hai câu mở đầu bài từ, phản ảnh rõ cảnh quan môi trường sinh thái của tộc người Việt ở phương nam đã không được trích dẫn:
      Mộc miên hoa ánh tùng từ tiểu
      Việt cầm thanh lý xuân quang hiểu
      Đồng cổ dữ Man ca
      Nam nhân kỳ trại đa…
      (Hoa gạo ánh đỏ cả khu đền nhỏ,
      Trong tiếng hót của đàn chim Việt dưới nắng xuân sớm
      Tiếng trống đồng hoà cùng tiếng hát của dân Man,
      Người phương Nam cầu cúng nhiều…)
      Trong Lịch sử tư tưởng Việt nam, tập II, tr. 153, nhà thơ đời Đường là Giả Đảo, ông Thục đã đọc sai thành Cổ Đảo. Bởi ông Thục không biết chữ có hai âm, khi là họ thì đọc Giả, còn đọc cổ lại có nghĩa là buôn bán                  
      3. Ông Phan Ngọc là người rất nhiệt tâm với văn hoá  dân tộc và đã có công bố nhiều đầu sách về văn hóa: Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới (1994), Bản sắc văn hóa Việt Nam (1998), Một cách tiếp cận văn hóa Việt Nam (2000), Một thức nhận về văn hóa Việt Nam (2005)... Dư luận khen chê cũng nhiều, trong đó nhược điểm lớn nhất của ông là ít đọc người khác, nặng về nghiên cứu kiểu tư biện chủ nghĩa (philosophie spéculative) và võ đoán. Nói theo cách nói của Trần Nho Thìn thì đó là lối “nghiên cứu chung chung, “đại ngôn” dẫn đến sự khái quát về đặc trưng văn hoá Việt Nam thoạt nhìn có vẻ như rất khoa học nhưng thực chất là thiếu cơ sở thực tiễn, phi khoa học”. Xin nêu một số dẫn chứng tiêu biểu: Trong sách Bản sắc văn hóa Việt Nam(Nxb. Văn hoá – Thông tin, 1998) ông cho rằng hương ước, khoán lệ không có ở Trung Quốc (tr. 285). Đây là một nhận xét hết sức võ đoán. Sách Từ nguyên định nghĩahương ước là “Hương nhân cộng thủ chi ước 鄉人共取之約” (Những quy ước mà người trong làng phải cùng nhau giữ gìn).
      Tống sử có ghi chép về cách xây dựng hương ước. Nói chung theo sử sách Trung Quốc thì hương ước bắt nguồn từ sách Chu lễ, được khởi dựng từ Bắc Tống và phát triển mạnh ở thời Minh. Theo chỗ chúng tôi được biết, thì ở ta, việc triều đình Lê Thánh Tông (1460 – 1496) ra sắc lệnh thể chế hoá hương ước ở nông thôn cũng tương tự như quy tắc thể chế hoá hương ước ở triều đại Chu Nguyên Chương (1368 – 1398) thời Minh. Về hương ước, thực ra ông Phan Ngọc không nắm được tình hình nghiên cứu sưu tầm ngay ở trong nước, chứ chưa nói đến nước ngoài. Thế nhưng ông lại nói chắc như đinh đóng cột: “Tại Viện Hán Nôm hiện nay, có văn bản 173 hương ước” (tr. 80). Viện Văn hoá dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa) từng thực hiện chương trình sưu tầm, biên dịch hương ước Hán Nôm, bản thân chúng tôi cũng có tham gia, nên chúng tôi nắm khá vững số liệu hương ước hiện còn ở Viện Hán Nôm. Chỉ tính riêng hương ước cổ Hà Tây, Hưng Yên đã có trên dưới 300 văn bản. Còn nếu tính đến khối lượng hương ước cận đại (1921) thì có tới trên dưới 5000 bản. (Theo thống kê của Thư mục hương ước cận đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, 1991). Như vậy, đâu phải số lượng văn bản chỉ có 173 hương ước như ông Phan Ngọc nói.
      Cũng về vấn đề so sánh với văn hoá Trung Quốc, ông Phan Ngọc còn nói rằng “Kiến trúc lớn nhất phi thường nhất, phản ánh tâm thức Việt Nam là hệ thống đê điều kênh lạch” (Sđd, tr. 39). Và ở sách Nội dung xã hội và mĩ học tuồng đồ (Nxb. Khoa học xã hội, 1984), do ông Phan Ngọc  viết chung với ông Lê Ngọc Cầu, khi nêu những hằng số nói về dân tộc Việt Nam so với Trung Quốc, ông Phan Ngọc đã từng nói đầy đủ hơn về vấn đề đắp đê: “Hằng số vật chất thứ hai - Việt Nam là một dân tộc đắp đê. Địa bàn làm cơ sở cho Trung Quốc ngày xưa đó là đồng bằng sông Hoàng Hà, nơi trồng lúa mì, cao lương, đậu nành, những giống cây không cần phải giữ nước thường xuyên. Sông Hoàng Hà cũng có những nạn lụt lớn, và theo truyền thuyết, Hạ Vũ đã khơi nước sông Hoàng Hà để nó chảy ra biển.... Nói chung câu chuyện chống nước, tát nước, giữ nước không đặt ra thường xuyên cho người Trung Quốc như người Việt” (tr. 78 – 79)
      Theo cách nói của ông Phan Ngọc thì dường như người Trung Quốc chỉ chống nước theo kiểu “Hạ Vũ”, tức là là khơi nước sông Hoàng Hà cho chảy ra biển mà không đắp đê. Những thực tế có phải vậy không? Căn cứ vào sách Trung Quốc đại bách khoa toàn thư – Trung Quốc sơn xuyên (Trung Quốc đại bách khoa toàn thư xuất bản xã, 1999), chúng ta được biết: từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc khoảng thế kỉ thứ VIII trước công nguyên (TCN) - thế kỉ thứ III TCN) hai bờ sông Hoàng Hà con sông lớn thứ hai của Trung Quốc đã được đắp đê. Đê bờ bắc và đê bờ nam bắt đầu từ tỉnh Hà Nam có tổng chiều dài 1.300.000m, qua bảy tỉnh. Thời Lưỡng Hán đã xuất hiện các hoạt động tu bổ bảo hộ đê Hoàng Hà. Từ thế kỉ I đến các thế kỷ sau đều có các hoạt động lớn nhằm tu bổ đê điều và phòng lụt ở Hoàng Hà… Ngoài sông Hoàng Hà mà ông Phan Ngọc có nói tới, thì sông Trường Giang, con sông lớn nhất Trung Quốc, dài 6.403.000m chảy qua 11 tỉnh, cũng có hai bờ đê khá dài, bao gồm đê chính hơn 3.100.000m và đê phụ dài 30.000.000m (nguồn: Trung Quốc đại bách khoa toàn thư, Sđd.)
      Chỉ sơ bộ nêu hai con sông lớn nhất nhì Trung Quốc cùng hệ thống đê điều của riêng hai con sông này cũng cho thấy khó có thể nói quá lời như ông Phan Ngọc, rằng đê Việt Nam là “kiến trúc lớn nhất, phi thường nhất”. Đó là nói về đắp đê. Còn về vấn đề “chống nước, tát nước, giữ nước không đặt ra thường xuyên cho người Trung Quốc như cho người Việt” liệu có đúng như nhận xét của ông Phan Ngọc hay không? Theo cách nói của ông Phan Ngọc, “chống nước” tức là chống lụt, “tát nước” tức là chống hạn và “giữ nước” tức là làm thuỷ lợi nói chung. Không rõ ông Phan Ngọc căn cứ vào đâu mà nói như vậy? Một nước nông nghiệp đất rộng người đông như Trung Quốc mà vấn đề thuỳ lợi lại không đặt ra thường xuyên kể cũng lạ. Để trả lời vấn đề này, chúng tôi chỉ xin trình bày rất sơ lược về lịch sử trị thuỷ của người Trung Quốc như sau:
      Một thuận lợi của lịch sử Trung Quốc là các sự  kiện lớn nhỏ đều được ghi chép khá kĩ. Nhờ  đó, chúng ta được biết nạn lụt của Trường Giang đã  đuợc ghi từ thời Hán. Kể từ đời Đường đến đời Thang trong khoảng 1300 năm, sông Trường Giang có 223 trận lụt rất lớn. Từ thế kỉ thứ VII trở đi, theo thống kê sơ bộ, trong khoảng 1400 năm, sông Hoàng Hà đã có 110 trận lụt, và lưu vực sông này đã có 95 lần hạn hán lớn. Đặc biệt, sông Hoàng Hà còn có một tai hoạ khủng khiếp, đó là nạn ứ bùn cát ở lòng sông, từ đời Hán đã có câu: “Nhất thạch thuỷ nhi lục đẩu nê” (Một thạch nước có đến sáu đấu bùn). Do vậy, người ta phải dùng phương án “Trúc đê thúc thuỷ, dĩ thuỷ công sa” (Đắp đê bó nước, dùng nước đẩy cát). Nhờ vậy, hệ thống đê điều của Hoàng Hà ngày càng hoàn thiện; không chỉ có một đê chính, mà còn nhiều phòng tuyến đê: đê quai, đê phụ, đê từ xa ở phòng tuyến hai… Đến đời Thanh, người Trung Quốc đã nêu ra nhiều nguyên lý để trị thuỷ sông Hoàng Hà. (Điều thú vị là trong cuốn sách Hán Nôm Hà đê bộ văn tập, ký hiệu A.617, ngoài những văn kiện về hộ đê ở Bắc bộ thời Tự Đức, còn phụ lục cả bản vẽ về kè đá, cống đá trên thân đê sông Trường Giang và sông Hán Thuỷ của Trung Quốc để tham khảo). Về thuỷ lợi, tưới nước, người Trung Quốc đã thực hiện từ đời Thương. Trong chế độ tỉnh điền thời kì Tây Chu, người ta đã biết đào ngòi lạch ngang dọc theo đường bàn cờ để dẫn nước tưới ruộng. Hiện còn bốn công trình thuỷ lợi được xây dựng từ thời cổ đại, đó là: 1 - Thược Pha, xây dựng từ Chiến Quốc (thế kỉ VII TCN - thế kỉ VI TCN), nay ở tỉnh An Huy, đây là hồ chứa nước cỡ lớn, chu vi hơn 120 dặm, có thể tưới cho hàng 100 vạn mẫu ruộng, khiến cho cả một vùng trồng lúa nước (thuỷ đạo) phát triển mạnh. 2 – Chương Thuỷ thập nhị cừ (mười hai kè sông Chương Thuỷ) nằm ở địa phận tỉnh Hà Bắc, được xây dựng từ thời Nguỵ (thế kỉ V TCN - thế kỉ IV TCN). Nhờ hệ thống tưới nước này đã cải tạo vùng ruộng chua mặn thành ruộng trồng lúa nước tươi tốt cho cả vùng Hà Nội (tên quận đời Hán) của nước Nguỵ. 3 – Đô Giang yển (đập ngăn nước Đô Giang), ở vùng Tứ Xuyên, xây dựng từ đời Tần (thế kỉ III TCN), là công trình phòng lụt, phòng hạn nổi tiếng về mức độ hùng vĩ, đem lại sự phồn vinh cho cả vùng bình nguyên thành đô. 4 - Trịnh quốc cừ (Kè nước Trịnh), cũng được xây dựng từ đời Tần (thế kỉ III TCN), là một công trình tưới nước khổng lồ, nay nằm ở Thiểm Tây. Thời Tây Hán kè này được cải tạo thêm, đương thời có bài dân ca ca ngợi, còn được ghi trong Hán thư. (Nguồn: Trung Quốc văn hoá tam bách đề, công trình của Nxb. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1987, Chương Khoa học, kĩ thuật – Mục 41, 42)
      Nghiên cứu văn hoá so sánh thì phải nắm chắc được các đối tượng. Rõ ràng là, ông Phan Ngọc chưa nắm được lịch sử văn hoá Trung Quốc, do đó, không tránh khỏi những suy luận chủ quan. Bệnh của ông chẳng qua là ít đọc hoặc không đọc sách nghiên cứu văn hoá Trung Hoa. Không cứ gì các hiện tượng lịch, mà cả về mặt lý luận cũng vậy, mặc dầu ông là con người của thao tác luận, tổ quốc luận, nhân cách luận, nhận thức luận… nên khó tránh khỏi mắc cả những lỗi sơ đẳng nhất. Chẳng hạn, ông cho rằng chính người Trung Quốc đã dùng từ Văn hoá để dịch từ Culture của phương Tây (Văn hoá Viêt Nam và cách tiếp cận mới, 1994 - Phần giải thích thuật ngữ văn hoá). Có nhiều tài liệu đã chỉ rõ, từ Văn hoá là do người Nhật mượn từ Hán để chuyển dịch từ Culture của phương Tây, sau đó các sách báo hiện đại của Trung Quốc cũng dùng theo. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi muốn dẫn dụng ngay một tài liệu của các học giả Trung Quốc nói về vấn đề này cho thêm phần khách quan. Trong sách Trung Quốc văn hoá sử tam bách đề (Sđd) ở bài Tổng luận, Mục 1. Văn hoá là gì? Các tác giả viết: “Văn hoá nhất từ, kỳ ý nghĩa hiển nhiên dữ cổ đại đích bất đồng. Tha thị thập cửu thế kỉ mạt, thông qua Nhật văn chuyển dịch, tòng Tây phương dẫn tiến đích” (Về từ văn hoá, ý nghĩa của nó rõ ràng là không giống như thời cổ. Từ này vốn đuợc chuyển dịch từ thuật ngữ phương Tây qua Nhật văn, vào cuối thế kỉ XIX).
      4. Ông Nguyễn Đăng Duy cũng là một tác giả rất say mê nghiên cứu văn hoá Việt Nam, ông viết văn hoá Việt còn nhiều hơn cả ông Phan Ngọc, chỉ tính số sách đã xuất bản, từ năm 1996 đến năm 2005, ông đã có 10 đầu sách. Chúng tôi đã có dịp đọc một số sách của ông, nhìn chung không thấy có đóng góp gì mới, chẳng những thế còn cho thấy có những nhận thức không chính xác, đúng như GS. Nguyễn Xuân Kính đã phân tích khi nói về công trình Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt của ông. Qua việc ông phân tích cấu tạo chữ thánh  trong  sách Văn hoá tâm linh (1996), cho rằng thánh là ở trên vua (王), chúng tôi đã biết trình độ Hán học của ông rất hạn chế và có cảm nhận rằng ông cũng là thuộc loại hình tư duy võ đoán, suy diễn chủ quan. Đến khi đọc cuốn Văn hoá Việt Nam buổi đầu dựng nước (Nxb. Hà Nội, 2002), chúng tôi càng thấy cảm nhận về chất lượng viết lách của ông là không sai. Ngay ở trang 10- 11 của sách này, ông viết: “Giống chim mỏ dài, chân cao, khi bay cánh dang rộng, ta thấy khắc trên các mặt trống đồng. Khi người Hán xâm lược chiếm đóng nước ta (111 TCN), văn hoá Hán tràn vào, trong đó có thứ chữ Trung Hoa cổ gọi là chữ Hán. Do ấn tượng mỗi khi có động, giống như chim trên đây bay lên trời hàng đàn nên hình ảnh mỗi con chim đang bay cổ vươn dài, hai cánh xải rộng, chân dài vươn ra phía sau, trông giống như chữ Lạc  , vì thế giống chim cò, vạc, giang, sếu ở nước ta khi ấy gọi thành chim Lạc. Ruộng mà có giống chim ăn cá xuống ăn gọi là ruộng Lạc…
      Thế  nhưng chữ Lạc  chỉ có nghĩa là vui, còn chữ Lạc là ruộng Lạc thì lại viết  , chim Lạc thì lại viết  【鳥+隹】  ”.
      Kể  ra, ông Nguyễn Đăng Duy cũng giàu tưởng tượng và lắm chữ nghĩa, từ hình ảnh chim bay với cổ dài cánh rộng… mà ông lại cho là giống chữ Lạc là vui, để rồi từ chữ Lạc là vui mà đính chính sang chữ Lạc là ruộng Lạc, rồi chữ Lạc là chim Lạc, khiến người đọc không còn biết đằng nào mà lần. Nhưng thực ra, đều là ông “bịa” ra hết, chẳng có sử sách nào ghi chép như thế cả. Ấy là chưa kể, mấy chữ ông viết đều lầm lẫn, chẳng đâu vào đâu. Chữ Lạc mà ông viết  để chỉ ruộng Lạc thì không có trong các từ điển Trung Quốc; có một chữ tương tự như thế, đó là chữ Lạc  【鳥+隹】(gồm chữ các một bên, chứ không phải chữ chuy), sử sách Hán Nôm của Việt Nam hay dùng để Lạc hầu, Lạc tướng, như trong Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.227/ bản lưu ở Đền Hùng cũng là bản này. Còn chữ Lạc mà ông Duy viết【鳥+隹】để chỉ chim Lạc, lại là viết sai, đúng ra phải viết (một bên là chữ các) hoặc  (một bên là chữ ) như cách viết của Thuỷ kinh chú,hoặc Sử kí Tư Mã Thiên… Mà cả hai chữ trên đều là chỉ loài ngựa, chữ Kinh Thi người Trung Quốc dùng để phiên âm tiếng Việt, chứ không có nghĩa chỉ chim Lạc như chúng tôi đã góp ý về sự ngộ nhận của học giả Đào Duy Anh ở trên.
      Cũng trong sách Văn hoá Việt Nam buổi đầu dựng nước, tr. 143, ông Duy khi nói về nhà nước Văn Lang đã viết: “Người Việt cổ ở Bắc Trung Bộ khi ấy, cũng được người Chăm cổ, người dân tộc Tây Nguyên để đầu trần đi ra ngoài, gọi là người Doan, có nghĩa là người đội nón. Từ cái tên mang tính biểu thị sinh hoạt của một cộng đồng người đội nón là người Doan, rồi biến âm hay biến nghĩa như thế nào đó, thành các tên Nôm K’châu, K’chơng, rồi Kẻ Chân, Kẻ Chơng. Cũng lại rồi để đến thời Trần các cụ Hán học chép sách đã đặt thành cái tên Hán Việt bộ Cửu Chân, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang”. Tiếp đó, tác giả lại suy luận rằng “Phải chăng là từ tên người Doan, Hán hoá thành Nhân Doan, rồi thành Nhật Nam. Như vậy, nhà nước được xác lập đã qui tụ con người với đất đai thành vùng địa danh lãnh thổ quốc gia”. Những phân tích của ông Duy như vừa nêu là thuộc lĩnh vực ngữ âm học lịch sử . Đây là một lĩnh vực đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức chung về ngữ âm; đồng thời phải hiểu biết về ngữ âm lịch sử tiếng Việt; ít ra phải đọc H. Maspéro Ngữ âm lịch sử tiếng Việt – các âm đầu, 1912, phải đọc Hoa Di dịch ngữ/ An Nam dịch ngữ do tác giả thời Minh biên soan khoảng thế kỷ XV – XVI… Đâu phải chỉ suy diễn lung tung như tác giả Nguyễn Đăng Duy đã bàn, vừa không có thông tin đang tin cậy, vừa không có cơ sở khoa học, do đó, đã không có sức thuyết phục người đọc, nếu không muốn nói có những biện luận nghe rất hài hước.
        Ở cuốn sách Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt (Nxb. Hà Nội, 2004), tác giả Nguyễn Đăng Duy cũng phạm nhiều sai lầm về tri thức văn hoá cơ bản, ở đây chỉ xin nêu một thí dụ tiêu biểu, đó là quan niệm chữ Hán là do thời Hán mà có: “Cưỡng chế áp đặt văn hóa, Nho giáo, văn hoá tự Trung Hoa ngay từ thời Hán, nên cũng gọi Hán học, chữ Hán” (tr. 29). “Chữ cổ Trung Hoa vào nước ta theo vào nước ta theo Nho giáo gọi thành chữ Nho, từ thời Hán nên cũng gọi chữ Hán” (tr. 30). Nhiều tài liệu Việt Nam, Trung Quốc có nói về định nghĩa chữ Hán; ở đây chúng tôi nêu ý kiến của nhà ngôn ngữ học hàng đầu Nguyễn Tài Cẩn như là một định nghĩa chuẩn mực và khoa học “Chữ Hán (hoặc còn gọi chữ Nho) vốn là một loại văn tự do người Hán sáng tạo ra cách đây khoảng trên 3000 năm, khi người Hán đang còn đóng khung địa bàn cư trú của mình trong vùng đất thuộc lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị” (Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr. 16). Tóm lại, chữ Hán là chữ của tộc người Hán, chứ không phải là chữ xuất hiện từ thời Hán.
      5. Về công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nxb. Thuận Hoá, 2006), do Tiến sĩ sử học Huỳnh Công Bá biên soạn, đây cũng là giáo trình lịch sử tư tưởng của Đại học sư phạm Huế, do đó càng đòi hỏi tính chính xác cao. Từ góc nhìn lịch sử văn hóa, chúng tôi đánh giá đây là một công trình được biên soạn công phu, có hệ thống trên cả ba lĩnh vực: tư tưởng triết học, tư tưởng chính trị và tư tưởng tôn giáo. Tuy nhiên, công trình không tránh khỏi những hạt sạn ở các khoa học chuyên ngành. Ở đây chúng tôi chỉ nêu một sai lầm ở lĩnh vực y học cổ truyền khi tác giả viết: “Tám mạch chỉ đạo tám vùng trong cơ thể con người, tám mạch gồm: - nhâm mạch chỉ đạo toàn bộ phía lưng, Đốc mạch chỉ đạo toàn bộ phía bụng” (tr. 75). Viết như thế là sai hoàn toàn chứng tỏ tác giả chỉ sao chép máy móc ở đâu đó, chứ bản thân không hiểu gì về “kỳ kinh bát mạch” trong y học cổ truyền phương Đông. Theo các sách về khí công, Từ nguyên, Từ hải và y học cổ thì phải hiểu ngược lại: “Trong thân thể con người, Đốc mạch dẫn trên lưng, cai quản toàn thể khí dương trong thân hình, Nhâm mạch vòng trên bụng, cai quản toàn thể khí âm trong thân hình … nên mới nói, lưng là dương, bụng là âm”. (Nguồn:Hoàng đế nội kinh tố vấn toàn tập, chương II. “Kim quĩ chân ngôn luận”, bản dịch của Nguyễn Tử Siêu, nhà thuốc Hồng Khê xb, 1954, tr. 43 – Đây là sách kinh điển y học cổ truyền).
      6. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn trong bài “Văn hoá dân tộc động lực để phát triển” (Sách Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Bộ Văn hoá – Thông tin - Thể thao, Hà Nội, 1992, tr. 65) đã viết. Giáo lý tôn giáo được thích nghi theo nhận thức của người dân để tồn tại. Avalokitecvara vốn trung tính được biểu hiện thành Bà Quan Âm, vì ở Việt Nam yếu tố nữ trong tôn giáo là một đặc trưng”.
      Theo chúng tôi nói ở Việt Nam yếu tố nữ  là một đặc trưng cũng còn phải xem xét đó là vào thời điểm nào, và cũng phải có  cứ liệu minh chứng; còn nói yếu tố nữ là một đặc trưng trong tôn giáo có lẽ còn phải trao đổi. Không chỉ giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, mà một số nhà khoa học khác lâu nay cũng có khuynh hướng coi yếu tố nữ trong văn hóa Việt Nam như một nét đặc trưng, do đó đã không tránh khỏi những lập luận có phần khiên cưỡng, hoặc chứng minh bằng những cứ liệu có phần gò ép, thiếu khách quan. Chẳng hạn như Trần Ngọc Thêm từng viết: “Tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần (Trong cuốn Các nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo – Mai Thị Ngọc Chúc – 1984, có tới 75 nữ thần)” (Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr. 272). Hoặc Chu Xuân Diên trong Cơ sở văn hoá Việt Nam (Sđd.) đã viết về tục đúc trống đồng của người Việt cổ rằng: “Khi trống đúc xong, cả làng được mời đến dự lễ mừng. Người được vinh dự đánh trống đầu tiên là một phụ nữ” (tr. 89) (ông Diên có ghi chú ở trang 90 rằng: Xem chi tiết trong Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn, 1997, tr. 130 – 134, và Đinh Gia Khánh., 1993, tr. 261 – 265; nhưng không dẫn tên sách cụ thể, nên chúng tôi tra cứu được). Tuy nhiên, do ông Diên có nói đó là ghi chép của Quảng Châu ký, nên chúng tôi cũng đã tra cứu được nguyên văn chữ Hán của sách này. Các sách Việt Giang lưu vực nhân dân sử của Từ Tùng Thạch (xuất bản năm Trung Hoa dân quốc 28/1939), Bách Việt nguyên lưu giữ văn hóa của La Hương Lâm (xuất bản năm Trung Hoa dân quốc 44/1955), đều có dẫn các cổ thư như Quảng Châu ký, Tấn thư, Tuỳ thư có ghi chép về tục đúc trống đồng của tộc người Việt. Sách Văn minh Lạc Việt của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Viện Văn hoá và Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2004) cũng có dẫn nguyên văn phiên âm và dịch nghĩa đoạn văn này (tr.152 – 153). Chúng tôi đã đối chiếu với nguyên bản chữ Hán, và hoàn toàn đồng thuận với cách hiểu và dịch nghĩa của ông Hinh: “Khi mới đúc xong, đem trống treo ngoài sân, đặt tiệc rượu mời đồng loại đến. Con trai con gái nhà giàu dùng thoa lớn bằng vàng bằng bạc gõ trống, xong để lại cho chủ nhân, gọi là thoa trống đồng”. Mấu chốt vấn đề là ở hai chữ “tử nữ” 子女 , trong nguyên văn. Từ nguyên giải nghĩa “tử nữ” là con trai và con gái (tử dữ nữ子與女). Đây là nghĩa cơ bản, thông dụng. Ngoài ra, Từ nguyêncòn ghi một vài nghĩa phụ: “tử nữ” chỉ nhân dân thời phong kiến, do bọn thống trị dùng (chữ Tả truyện), và nghĩa thứ ba, “tử nữ” là con gái do Hán Vũ Đế gọi con mình khi gả cho chữ Hung Nô (Hán thư) . Hai nghĩa phụ là nghĩa đặc định, được ghi cho hết lẽ cònHán Việt từ điển chỉ ghi có một nghĩa: “tử nữ” là con trai và con gái có chua cả tiếng Pháp (gar ons et filles) nghĩa là con trai và con gái, như vậy, theo ngữ cảnh phải dịch là “con trai và con gái”, chứ không thể dịch là con gái. Mà là cả đám đông nam nữ “lai giả doanh môn 來者盈門”/ người đến đầy cửa (Quảng Châu ký), chứ không phải “một phụ nữ” như trích dẫn của PGS. Chu Xuân Diên, càng không thể suy diễn “Người được vinh dự đánh trống đầu tiên là một phụ nữ”. Các tác giả Từ Tùng Thạch, La Hương Lâm không bình luận gì về yếu tố nữ khi trích dẫn các cổ thư. Điều đáng chú ý là trong nguyên văn có ghi rõ “dĩ kim ngân vi đại thoa” (dùng vàng bạc đúc chiếc thoa lớn - ông Hinh có phiên âm, nhưng khi dịch đã bỏ qua “đại thoa”). Vậy loại thoa này cốt làm to dể đánh trống chứ không phải để gài búi tóc, do đó mới có tên là “đồng cổ thoa”; vả lại làm thoa còn có dụng ý để tặng biếu chủ nhà với số lượng vàng bạc tươm tất, tỏ rõ sự trọng vọng đối với vị Đô lão/ người chủ trống đồng. Sách Lịch sử tư tưởng, tập I, của Nguyễn Đăng Thục (Sđd, tr. 66)  dẫn nguồn Tuỳ thư, Địa lý chí, cũng có lời dịch đúng về tục ăn mừng khi đúc xong trống đồng: “Khi mới hoàn thành treo ở giữa sân, đặt tiệc tiệc rượu mời đồng bào. Người đến dự có trai gái nhà giàu lấy vàng bạc làm chiếc thoa lớn, cầm đánh vào trống, xong rồi để lại cho chủ nhân gọi là thoa đồng cổ”. Tóm lại, qua các cứ liệu vừa dẫn, rõ ràng là không có chuyện người được vinh dự đánh trống đồng đầu tiên là một phụ nữ.
      Còn nói như Trần Ngọc Thêm “Trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần” và viện dẫn 72 nữ thần trong sách Các nữ thần Việt Nam để minh chứng, thì chẳng qua cũng chỉ là tầm nhìn hạn hẹp “ở nhà nhất mẹ nhì con”. Nếu nhìn sang nước láng giềng Trung Quốc, thì “tình trạng lan tràn các nữ thần” còn lớn hơn ta gấp bội. Qua sách Trung Quốc nữ thần (Quảng Tây giáo dục xuất bản xã, 2000) của GS. Qua Vĩ, con số các nữ thần Trung Quốc được thống kê là hơn 1000 vị; rỉêng nữ thần Long Mẫu đã có trên 300 đền thờ ở Quảng Đông, có sắc phong và văn bia từ thời Tần Thuỷ Hoàng, cách ngày nay đã 2000 năm lịch sử; nữ thần Má Tổ được ghi chép từ thời Nam Tống (thế kỉ XII), hiện ở Đài Loan có 500 miếu thờ, trên toàn thế giới có trên 1500 miếu thờ…Và nếu nói như GS. Vạn thì phải chăng đây cũng là đặc trưng của tôn giáo Trung Hoa? Trở lại vấn đề “Bà Quan Âm”, các sách Phật giáo và từ điển Trung Quốc cũng từng có thông tin; chẳng hạn sách Trung Quốc dân gian tín ngưỡng phong tục từ điển (Trung Quốc Văn Liên xuất bản công ti, Bắc Kinh, 1992) cho biết, từ đời Đường trở đi, trong tín ngưỡng dân gian, hình tượng Quan tế Âm dần chuyển sang nữ tính; cuối đời Tống, cùng với truyền thuyết Quân Âm là con gái vua Diệu Trang Vương thì từ đó Quan Âm hoàn toàn là nữ. Diều thú vị là trong truyện Tây du ký (bản dịch, Nxb. Văn học,1988, tr. 349, có đoạn kể chuyện Tôn Ngộ Không hỏi chuyện Tam tạng về bài chú “khẩn cô nhi” do ai truyền, sau khi nghe Tam Tạng trả lời đó là do một bà lão truyền cho, Tôn Ngộ Không đã tức giận nói: “Bà lão ấy đúng là Quan Âm rồi. Tại sao hại ta như vậy. Đợi ta sang tận Nam Hải nện cho mụ một trận.” Ở một chỗ khác trong Tây du ký, Tôn Ngộ Không còn rủa Quan Âm: “Làm gái già suốt đời là đáng lắm”. Tiếc là câu rủa này được trích dẫn trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964) quyển II, tr. 210, Lịch sử văn học Trung Quốc, nhưng soạn giả không nói rõ ở trang nào, nên chúng tôi chưa thể tìm thấy ở bản dịch Tây du ký tiếng Việt. Dù sao thì chúng ta cũng được biết ở Trung Quốc, Quan Âm cũng là nữ giống như ở Việt Nam. Bởi vậy coi yếu tố nữ là một đặc trưng của tôn giáo Việt Nam để lý giải hiện tượng Bà Quan Âm là không có sức thuyết phục.
      7. Công trình Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ XIX của Nguyễn Khắc Thuần, ở chương III, có một phần viết liên quan đến đề tài của chúng tôi, đó là phần B. “Một số vấn đề về văn hóa thời Bắc thuộc”. Nội dung khoa học của phần này gồm có 5 mục lớn: I – Nho giáo và qúa trình truyền bá Nho giáo vào nước ta. II - Đạo giáo và quá trình truyền bá Đạo giáo vào nước ta. III - Phật giáo và quá trình truyền bá Phật giáo vào nước ta. IV - Thực trạng và đặc trưng mới của đời sống văn hóa thời Bắc thuộc. V - Chủ nghĩa yêu nước và những nội dung biến thái mới.
      Trong 162 trang khổ sách lớn 16x24 cm viết về một số vấn đề về văn hóa thời Bắc thuộc, như tác giả đã giới thuyết, chủ yếu chỉ là nói về Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Tuy nhiên, phần thông tin về ba tôn giáo này ở Việt Nam thời Bắc thuộc lại hết sức mơ hồ, thậm chí sai lạc. Về cách viết, tác giả khi giới thiệu về các tôn giáo này ở Việt Nam, thường hay nêu luận điểm cho rằng các tôn giáo này vào Việt Nam là do chính sách nô dịch, đồng hoá của các triều đại phong kiến Trung Quốc, nêu nhiều chỗ như một điệp khúc, gây phản cảm cho người đọc. Một nhược điểm nữa là phần giới thiệu lịch sử ba tôn giáo này quá dài dòng, quá bề bộn, quá lan man, chẳng hạn về Nho giáo, Đạo giáo đều viết một mạch từ nguồn gốc đến tận thời Minh, Thanh, tức là vượt xa thời Bắc thuộc. Ấy là còn chưa kể trong đó còn có những chỗ thiếu chính xác về tri thức lịch sử chuyên ngành. Ngoài ra, nói chung chung, nói suông nhiều hơn là trình bày cứ liệu, nêu rõ nguồn xuất xứ. Xin nêu một số thí dụ:
      - Về Nho giáo, cho rằng chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ chỉ cho phép truyền bá vào nước ta những nội dung nào của Nho giáo mà chúng xét cực đoan nhất và có lợi nhất cho chính sách thống trị của chúng. Và nội dung truyền bá gần như chỉ có hai “mảnh vụn cực đoan nhất của Nho giáo” (ngoặc kép của tác giả) đó là sự cổ vũ mạnh mẽ cho tiếng nói tôn quân đại thống nhất và sự quảng bá rầm rộ cho tư tưởng trọng nam khinh nữ. (tr. 134). Tác giả không hề nêu cứ liệu hoặc xuất xứ nào cả. Thế nhưng đến đoạn dưới, thì chính tác giả lại tự mâu thuẫn khi cho rằng: “Sự lợi dụng của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ với Nho giáo là điều không thể phủ nhận, nhưng những tác dụng tích cực của Nho giáo đối với xã hội ta thời Bắc thuộc cũng là điều không thể nào phủ nhận” (tr. 135). Tác dụng tích cực ấy là gì? Tác giả giải thích: đó là từ thời Bắc thuộc, bắt đầu nhân dân ta có trường học, có thầy giáo, có học trò. Rồi từ đó chữ viết của Trung Quốc vào ta để thành văn tự chính thức trong thời gian rất lâu dài. Rồi qua Nho giáo, hệ thống nghi lễ, phong tục, qui phạm đạo đức, pháp luật “thâm nhập xã hội người Việt và “không phải là tất cả đều không hề có một chút tác dụng tích cực tốt đẹp nào”(tr. 136). Hoá ra ngoài những “mảnh vụn cực đoan nhất của Nho giáo” vẫn còn có những “mảnh vụn” khác không cực đoan và tốt đẹp đối với dân ta.
      - Về Đạo giáo, phần giới thiệu lịch sử Đạo giáo ở Trung Quốc tuy bề bộn như chúng tôi đã nêu, nhưng những kiến thức cơ bản của tác giả trong lĩnh vực này rõ ràng còn khá yếu. Chẳng hạn, nói về Trương Giác (tr. 172) người sáng lập Đạo Thái Bình, mà lại không nói gì đến một thông tin rất quan trọng đó là ông còn là Thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nhà Hán, do nghĩa quân đầu quấn khăn vàng nên còn gọi “giặc Hoàng Cân” (Hồi thứ nhất của Tam quốc diễn nghĩa chính là kể về việc khởi nghĩa Khăn Vàng này).
      Tác giả còn nói “Đạo giáo Trung Quốc thực sự  trở thành một tôn giáo lớn cũng chỉ mới bắt đầu từ thời nhà Tấn, và đặc biệt kể từ thời Nam Bắc triều.” (tr. 173). Đây cũng là một thông tin thiếu chính xác. Thời kỳ cực thịnh của Đạo giáo Trung Quốc phải là thời Đường, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, xã hội, nhưng có một nguyên nhân khá lí thú đó là cha con Đường Cao Tổ Lý Uyên, Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã tôn Lão Tử cũng họ Lý (Lý Nhĩ) làm tổ tiên của nhà Đường để coi mình như hậu duệ của bậc thần tiên (Lão Tử được Đạo giáo tôn xưng làm Thái Thượng lão quân).
      Nói về Cát Hồng (tr. 173), tác giả cũng có chỗ bất cập là không giới thiệu được nét đặc trưng của nhân vật, đó là một Đạo giáo thuộc dòng Đạo giáo thần tiên phái kim đan. Ngoài ra, còn có một chi tiết hết sức thú vị có liên quan đến nước ta thời cổ cũng không được đề cập tới, đó là việc Cát Hồng nghe tin đất Giao Chỉ có nhiều đan sa, nên đã xin vua Tấn cho sang làm huyện lệnh huyện Câu Lậu của quận Giao Chỉ để có dịp luyện đan (Tấn thư)… Trong một công trình lịch sử văn hóa, thì những điểm nhấn như chúng tôi vừa dẫn là rất đáng chú ý. Còn việc phân tích giới thiệu hàng loạt kinh sách quá phồn tạp về Đạo giáo như tác giả đã thực hiện (tr. 173) là quá thừa, nếu không muốn nói đó là sự lấn sang lĩnh vực tôn giáo sử, hoàn toàn không cần thiết đối với người đọc sách lịch sử văn hoá.
      Về  lực lượng đạo sĩ ở thời Bắc thuộc tác giả Nguyễn Khắc Thuần nói rằng, ở thời đầu gần như chỉ có người Trung Quốc, nhưng đến cuối thời Bắc thuộc, thì số lượng đạo sĩ là người Việt ngày một nhiều hơn (tr. 182). Tuy nhiên, tác giả không nêu cứ liệu, sử liệu chứng minh, do đó mà thiếu sức thuyết phục người đọc.
      Việc liệt kê các ngôi đền thờ liệt thánh thời Bắc thuộc (tr. 184 – 198), theo chúng tôi cũng cần hết sức thận trọng có cơ sở cứ khoa học, bởi đã qua vài năm thực tế lịch sử như  thế nào thật khó mà hình dung cho xác đáng.
      - Về Phật giáo, sai lầm của tác giả Nguyễn Khắc Thuần khi nói về “Phật giáo và những cuộc tiếp xúc đầu tiên với người Việt” (tr. 245) là không nắm vững địa - lịch sử, địa – chính trị của địa bàn Luy Lâu, thời Bắc thuộc. Ông Thuần đã không thầy rằng Luy Lâu (Dâu) từng là trung tâm chính trị của chính quyền đô hộ phương Bắc trong nhiều thế kỷ đồng thời đây cũng là trung tâm thương mại lớn có tầm quốc tế, các khách buôn Trung Quốc, Trung Á, Ấn Độ… từng ra vào tấp nập bằng đường thuỷ theo tuyến sông Lục Đầu, sông Thái Bình ra biển, để buôn bán nông lâm thổ sản quí hiếm của người Việt Nam (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, 1988, Phần Phật giáo thời du nhập và Bắc thuộc do nhà nghiên cứu Phật học Thích Minh Chi viết, tr. 34). Do vậy, ông Thuần đã đoán rằng tuyến đường thuỷ là từ Ấn Độ qua Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào… và Phật giáo Ấn Độ đã theo tuyến này truyền vào khu vực phía Nam nước ta, mà bấy giờ còn thuộc quyền quản lý của Chiêm Thành, Phù Nam… (tr. 245 – 246). Và ông Thuần gọi đây là đường Nam truyền của Phật giáo vào nước ta. Chính vì hiểu đường truyền phía Nam trắc trở như ông Thuần nghĩ, nên ông cho rằng Phật giáo Ấn Độ trước hết là vào nước ta theo đường Bắc truyền, tức là từ Ấn Độ qua Tây Vực, rồi từ Trung Quốc truyền xuống nước ta (tr. 245). Thực ra, theo sử sách Trung Quốc thì không phải đợi đến khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang ta, ta mới có đạo Phật, mà ngay từ thời Hán, khoảng cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, Phật giáo ở Việt Nam đã khá hưng thịnh, (do Ấn Độ theo đường biển du nhập thẳng vào Việt Nam/ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 33). Chính vì vậy mà lại xuất hiện tình trạng ngược lại, đó là người Trung Quốc sang học Phật tại Việt Nam, và sư Việt Nam sang rao giảng Phật học tại Trung Quốc. Trong sách Lưỡng Hán hoà Tây Vực đẳng địa đích kinh tế văn hoá giao lưu của Trần Trúc Đồng, Thượng Hải nhân dân xuất bản xã, 1957, có đoạn viết: “Thời Hán Hiến Đế (189 – 220), Trung Quốc loạn lạc liên miên, nhưng ở Giao Châu (Giao Chỉ) lại tương đối yên tĩnh, nên nhiều nho sĩ người Hán đã chạy sang lánh nạn ở đây. Lúc này có Mâu Dung bèn viết cuốn Lý hoặc luận gồm 37 thiên, để giải thích cho những kẻ phỉ báng đạo Phật” (lời dịch từ nguyên văn, tr. 28). Một cứ liệu khác là Lương Cao tăng truyện, theo sách này cho biết thì khoảng đầu thế kỷ III, cha mẹ Khương Tăng Hội người Trung Á sang Giao Châu buôn bán rồi sinh ra ông, khi lên 10 tuổi thì cha mẹ mất, ông đã xuất gia theo học đạo Phật, thông cả chữ Phạn chữ Hán, sau đó ông đã từ Giao Châu sang vùng Giang Đông, Đông Ngô (Trung Quốc) để truyền đạo Phật (dẫn lại theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 30 - 31). Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục soạn cuối thời Lý đầu thời Trần cũng có cứ liệu tương tự.
      Ở mục IV “Thực trạng và đặc trưng mới của đời sống văn hóa thời Bắc thuộc” (tr. 263), tác giả đã nêu một số nhận xét thật khó chấp nhận: “Ngoài các hệ tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, nhiều trào lưu văn hóa khác cũng đã được truyền bá tới nước ta, ví dụ: hệ thống những tập tục và lễ nghi rất phong phú của xã hội (như hôn nhân, tang tế, hay nghi lễ giao tiếp); hệ thống những định chế tuy là bất thành văn nhưng ngày càng chặt chẽ về gia giáo; sự khai sinh cũng như ý thức xây dựng và củng cố kỉ cương của các họ tộc; quá trình truyền bá nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, nghệ thuật hội hoạ, nghệ thuật ca múa nhạc…” (tr. 263). Trước hết, nhận xét vừa nêu của tác giả rõ ràng là đầy mâu thuẫn với nhận xét về truyền bá Nho giáo ở phần trên: “Mục đích truyền bá là để phục vụ cho âm mưu truyền bá và nô dịch chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ” (tr. 134). Âm mưu của chính quyền đô hộ hoá ra lại truyền bá tới nước ta ở thời Bắc thuộc nhiều cái tốt đẹp như vậy sao? Thứ hai, tác giả chỉ nêu những nhận xét nhưng không có cứ liệu, sử liệu, như thế người đọc làm sao có thể tin đó là sự thực lịch sử đáng tin cậy? Thứ ba, đến tận thời Đại Việt, khi sứ nhà Nguyên là Trần Phu sang Thăng Long đời Trần,  còn coi nước ta là man di không có phong tục và lễ nhạc giống Trung Hoa, vậy mà thời Bắc thuộc, chẳng lẽ lại có lễ nghi, phong tục, kỉ cương văn minh đời Trần? Nguyên câu của Trần Phu:
         Hạ tục kiêu phù thậm
         Trung Hoa lễ nhạc vô.
                  (An Nam tức sự)
      Nghĩa là: Phong tục của đám dân thấp kém ở đây đơn bạc chẳng ra gì/ Mà lễ nhạc như của Trung Hoa không thấy có.
      Đặc biệt ở mục V, nói về “Chủ nghĩa  yêu nước và những nỗi nội dung biến thái mới”, tác giả càng khiến cho người đọc vô cùng sửng sốt khi cho rằng trong thời Bắc thuộc: “Làng (nhất là làng ở khu vực nay thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ) luôn có đình làng, có các luỹ tre làng và có cổng làng. Làng có lính riêng của làng, đó là đội ngũ những trương tuần hoặc dân binh, làng có người chuyên lo việc truyền tin, đó là thằng mõ”. Làng cũng có pháp luật riêng của làng, đó là lệ làng và hương ước. Lệ làng và hương ước tồn tại bền vững và chi phối dân làng mạnh mẽ đến nỗi, đã có không ít khiphép vua thua lệ làng…” (tr. 268). Đọc đoạn viết này, chúng ta có cảm giác như đây là khung cảnh của một làng xã thời Lê - Nguyễn, còn ngược lên đến thời Lý - Trần thì các yếu tố như đình làng, mõ làng, hương ước… cũng không có cứ liệu, nói gì đến tận thời Bắc thuộc từ hàng ngàn năm trước. Theo nghiên cứu của giới sử học, khảo cổ học, dân tộc học và lịch sử mĩ thuật, thì thế kỉ XV, thời Lê sơ, đình làng mới manh nha, đến thế kỉ XVI, thời Mạc thì hiện còn một số ngôi đình cổ (Thuỵ Phiêu, Tây Đằng, Lỗ Hạnh…). Về hương ước, chúng tôi đã trực tiếp dịch nhiều văn bản hương ước Hán Nôm, đồng thời cũng có nghiên cứu lịch sử hương ước của cả ta và Trung Quốc, thì được biết vào thời Lê, hương ước mới phát triển, chứng tỏ là Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã phải ra đạo dụ để thể chế hoá việc lập hương ước ở nông thôn (Hồng Đức thiện chính thư, A.330), nhưng văn bản hương ước thời này hiện cũng không còn. (K.T.H: Hương ước cổ Việt Nam, những giá trị văn hoá và pháp lí, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Việt - Nhật, Hà Nội, tháng 12 – 2002). Tác giả Nguyễn Khắc Thuần lại còn nói “phép vua thua lệ làng”, thì không rõ đó là vua nào ở thời Bắc thuộc, vua Việt hay vua Tàu? Những nhận định như vậy thật là tuỳ tiện và phi lịch sử.
      Tóm lại, ngót 200 trang viết về văn hoá Việt thời  Bắc thuộc thực chất chỉ có thể coi là giản sử của ba giáo Nho, Đạo, Phật của Trung Quốc, còn phần ba tôn giáo đó ở Việt Nam chỉ là cái đuôi rất mơ hồ. Nói chung, nội dung vừa thừa vừa thiếu, đọc rất khô khan, và chẳng thấy mặt văn hoá của ba tôn giáo đó ở đâu. Phải nhận rằng, trong lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu văn hoá Trung Quốc viết rất hay, rất hấp dẫn, và chúng ta không thiếu sách để tham khảo. Tiếc rằng ông Nguyễn Khắc Thuần đã không quan tâm hoặc không biết đến nguồn tài liệu cực kì bổ ích này.
      8. Về vấn đề văn học như là thành tố của văn hoá, thậm chí là xương sống của văn hoá (Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn) lâu nay chưa được quan tâm trong các công trình viết về văn hoá Việt Nam. Riêng Chu Xuân Diên trong Cơ sở Văn hoá Việt Nam, ở Chương Năm – Văn hoá truyền thống Việt Nam thời Đại Việt, có viết về văn học, song chỉ kể tên vài tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học Hán – Nôm, có lẽ do dung lượng công trình không cho phép nói dài, nhưng thiếu sót của tác giả vẫn là ở chỗ không nhắc gì đến dòng văn học dân gian. Trong Văn hoá học đại cương và Cơ sở văn hoá Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội, không có bài tuyển chọn nào về văn học, mặc dầu phần “Sơ đồ các thành tố của văn hoá”  cũng như “Sơ đồ diễn trình lịch sử và mô hình văn hoá Việt Nam” của GS. Trần Quốc Vượng đều có ghi nhận văn học như một thành tố của văn hoá. (Trong khi đó, các công trình lịch sử văn hoá của Trung Quốc đều không bỏ qua thành tố văn học, các thể loại và tác phẩm văn học tiêu biểu như Kinh thi, Sở thi, Đường thi, Tống thi, Nguyên khúc, tiểu thuyết Minh Thanh” đều được trình bày đầy đủ như một hình thái văn hoá đặc sắc của Trung Quốc)
      Trước đây, từ 1938, nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa tiền bối Đào Duy Anh, trong công trình Việt Nam văn hoá sử cương, là người sớm nhất đã nói về văn học như một thành tố của văn hoá Việt Nam. Nhưng do điều kiện sưu tầm, tập hợp tư liệu văn học lúc bấy giờ còn quá khó khăn, nên tác giả cũng chỉ có thể lướt qua với những nhận xét hết sức sơ lược mà thôi. Còn hiện nay, chúng ta đã có nhiều bộ tổng tập văn học, cả dân gian và bác học, kho tư liệu văn học đã rất phong phú, thì việc đưa văn học vào các công trình lịch sử văn hoá Việt Nam là khá thuận lợi. Vấn đề đặt ra chỉ là quan điểm tiếp cận mà thôi. Theo thiển nghĩ, bộ phận văn học trong lịch sử văn hoá không thể chỉ là văn học sử thu gọn, mà phải là văn học dưới góc nhìn văn hoá. Và, cái khó chính là ở chỗ đó. Mặt khác, một khó khăn nữa đặt ra đó là chúng ta không thể tiếp thu xô bồ tất cả các tư liệu sẵn có, bởi không phải tư liệu nào cũng hoàn chỉnh, không cần thẩm định lại, đặc biệt là các tư liệu văn học Hán Nôm. Xin nêu một vài thí dụ:
      + Ở tác phẩm Thiên Nam ngũ lục, bản phiên âm, chú thích của Nxb. Văn học, 1958, đoạn phiên âm truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thuỷ có câu: “Nghe rằng Thục có nữ nhi/ Mị Châu tên ốc đương thì thiếu đôi” (câu 780). Nhóm phiên âm do không hiểu từ cổ “ốc” nghĩa gọi, gọi là, nên đã viết hoa chữ ốc như là tên riêng. Điều thú vị là theo thông lê “dĩ ngoa truyền ngoa”, tác giả Tầm Vu (tức Trần Văn Giàu) trong bài “Tư tưởng chủ yếu của người Việt Nam thời cổ qua những truyện đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết” (Tạp chí Văn học, số 3 – 1967), đã chú thích cái tên ốc có vẻ dân dã trong bộ sử ca Thiên Nam ngữ lục qua bản phiên âm 1958, nên đã viết rằng Cao Lỗ “can vua đừng gả nàng Ốc (Mị Châu) cho Trọng Thủy”. Và đến giáo trình đại học Văn học dân gian, tập I (Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972), ở tr. 195, khi đó nói về Hán hoá các tên riêng, tác giả công trình đã ghi nhận ở phần chú thích: “Mị Châu theo truyền thuyết dân gian vốn tên là ốc. Vậy Mị Châu là tên ốc đã Hán hoá chăng?”.
      Tóm lại, nghĩa của cả câu đó là: Nghe rằng vua Thục có cô con gái/ tên gọi là Mị Châu đương còn chưa có đôi lứa. Nhưng do có cấu trúc câu đảo trang, nên dễ tạo thành bẫy ngôn ngữ. Hình thức cú pháp này cũng thường gặp trong các truyện thơ Nôm trung đại, kể cả Truyện Kiều, như câu: “Đoạn trường sổ rút tên ra”, thì người đọc cần phải hiểu ngượi lại là: rút tên ra khỏi sổ đoạn trường…
      + Về bản dịch Lĩnh Nam trích quái (Nxb. Văn hoá, Viện Văn học, Hà Nội, 1960). Đây là bản dịch có nhiều sai sót, tuy nhiên chúng tôi chỉ xin nói về những sai lầm ở hai chuyện “Man nương” và “Hà Ô Lôi” là hai chuyện mà giới nghiên cứu văn hoá dân gian hay trích dẫn. Ở truyện “Man nương”, trong nguyên văn chữ Hán, có cây dung thụ 榕樹nghĩa là cây Đa; bản dịch đã dịch sai thành cây phù dung - một loại cây hoa, sớm trắng chiều hồng, sớm nở tối tàn, khác hẳn với cây đa, loại cây cao to rất quen thuộc với nông thôn Việt Nam. Cũng trong truyện này, nguyên văn viết Pháp Lôi, Pháp “Điện”, bản dịch đã dịch sai thành Pháp Lôi, “Pháp Long”, sở dĩ dịch sai là bởi chữ Điện  rất giống với chữ Long  viết giản thể, lại hơi “đá thảo” (viết ngoáy) thì càng dễ lầm. Ở truyện “Hà Ô Lôi” có hai chỗ sai, nguyên văn viết 茉莉Mạt lị, tức hoa Mlài, hoa Nhài; nhưng đã dịch sai thành hoa Thái Lê, chắc đã lầm chữ Mạt  với chữ Thái  có nghĩa là rau, còn chữ     do đọc bừa thành Lê   là cây lê ăn quả, vì cũng có ghép với chữ lợi  . Một trường hợp nữa là mấy chữ  均天之節調   “Quân thiên chi tiết  điệu”, do nhầm chữ quân     với chữ điếu   là câu cá, nên đã dịch sai là “điệu ca người câu cá”. Quân thiên 均天có nghĩa là âm nhạc ở trên trời, trên thiên đình; đây là ngợi ca tiếng hát của Hà Ô Lôi là điệu ở cõi tiên, rất phù hợp với câu dưới “khác hẳn âm thanh chốn dương gian…” . Dịch là “điệu ca người câu cá” làm mất hết ý ca ngợi của nguyên văn.
      Do đây là bản dịch xuất hiện sớm, cùng với vị  thế của dịch giả, nên đã không có ít bài viết, luận án,… đã cứ “dĩ ngoa truyền ngoa” như thế trong nhiều năm nay.
      + Nhân nói về việc sai, chúng tôi xin nêu thêm về  bản dịch Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc, (Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2004) do GS. Lương Duy Thứ chủ biên. Do người dịch còn hạn chế về tri thức Phật học và vốn Hán cổ, nên đã dịch sai, phiên âm sai, chú thích sai nhiều từ ngữ văn hoá - lịch sử của Trung Quốc. Chẳng hạn:
      - Thiên thai 天臺 dịch sai thành Thiên Đài . Thiên thai, tức núi Thiên thai ở tỉnh Chiết Giang, nơi phát tích của Thiên Thai tông trong Phật giáo Trung Quốc.
      - Tịnh Độ tông dịch sai thành Tịnh Thổ tông. Chữ Hán viết Tịnh thổ   nhưng phải đọc Tịnh Độ. (Các tr. 110, 111, 605, 606).
      - Bát Nhã là một từ rất quen thuộc trong Phật giáo, chữ Hán viết   般若 (ban nhược)  nhưng phải đọc Bát nhã. Vậy mà nhóm dịch sách vẫn cứ đọc Bàn Nhược. (tr. 109).
      - Từ lý thú đáng lý không cần chú thích. Vậy mà nhóm dịch sách lại chú giải: “hứng thú lý học” (tr. 117). Chúng tôi đã tra cứu chẳng thấy tài liệu nào giải thích như vậy, mà đọc từ chú giải có lẽ còn khó hiểu hơn là cứ để nguyên hai chữ lý thú, vốn là một từ ngữ thông dụng ai cũng hiểu. Riêng Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giải thíchlý thú là  “sự lý thú vị”.
      - Từ đoàn viên 團圓cũng là từ thông dụng, dễ hiểu, thậm chí đã nằm trong kho từ vựng Tiếng Việt, nhưng vẫn được chú thích mà lại chú giải sai, làm sai lạc cả ngữ nghĩa: “đoàn là quấn quýt, viên là hình tròn” (tr. 142). Thực ra trong chữ Hán, thìđoàn  và viên   vốn là hai từ đồng nghĩa (Từ nguyên, Hán Việt từ điển); còn đoàn viên có nghĩa là hội họp người thân, riêng chữ đoàn không hề có nghĩa quấn quýt.
      - Mục nói về thần giữ của, nguyên tên là  Thần Đồ, Uất Luỹ,                     
      người dịch do không nắm được chữ Hán cổ nên  đã đọc sai thành Thần Dư, Ức Lỗi (cả ở hai tr. 143, 144). Kể ra chữ đồ   {?cũng hơi giống chữ     ; còn chữ uất  mà đọc thành chữ ức thì có thể do chữ uất khi viết giản thể lại mượn chữ úc , những người học Trung văn hiện đại cứ suy theo âm Bắc Kinh hiện nay thì cũng rất dễ lầm. Dù sao, đây là những từ ngữ văn hoá – phong tục cũng không đến nỗi khó tra cứu, dịch sai vẫn là điều đáng trê trách. (Nhân đây chúng tôi muốn nói thêm, cuốn Lịch sử văn hoá Trung Quốc của nhóm Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý (1991) không phải cuốn sách lịch sử văn hoá Trung Quốc “phong phú và hoàn thiện hơn cả” để “có thể tìm hiểu ở đây mọi mặt của văn hoá Trung Quốc” như Lời giới thiệu của ông Lương Duy Thứ. Thực chất đây chỉ là cuốn sách viết về văn hoá tinh thần mà không phải viết về văn hoá vật chất, các vấn đề về đất nước, con người các dân tộc thiểu số đều còn bỏ trống, làm sao có thể nói rằng ở đây có mọi mặt của văn hoá Trung Quốc. Rõ ràng, việc chọn sách dịch còn rất hạn chế, chứng tỏ nhóm biên dịch chưa nắm đầy  đủ thông tin về các sách lịch sử văn hoá Trung Quốc).
      + Về vấn đề tên riêng có liên quan đến ngữ âm lịch sử, đến văn hoá - lịch sử dân tộc cũng là một lĩnh vực quan trọng mà người biên soạn lịch sử văn hoá cần quan tâm. Sau đây xin nêu trường hợp tên gọi hai vị trong 12 sứ quân, đó là Kiểu Công Hãn và Kiểu Thuận, đã bị giới sử học đọc thành Kiều Công Hãn, Kiều Thuận. Giáo trình Lịch sử Việt Nam (Thời kì chế độ phong kiến dân tộc) Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 1965 (tr. 7) đọc như vậy. Cuốn Lịch sử Việt Nam, tập I, do Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nôi, 1971) tr. 143, cũng đọc như vậy. Nguyên văn chữ Hán trong các văn bản Hán Nôm đều viết Kiểu . Chẳng hạn, Đại Việt sử ký toàn thư, kỉ nhà Đinh, khi nói về 12 sứ quân, đã viết đúng là Kiểu Tam Chế, Kiểu Lệnh công (Bản dịch Nxb. Khoa học xã hội, 1983) tr. 205 cũng đã dịch đúng là Kiểu. Mục “12 sứ quân” trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, các tên có chữ Kiểu cũng đều được dịch đúng. (Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960, tr. 156). Trong bản chữ Nôm Thiên Nam ngũ lục, kí hiệu AB.478, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, phần Ngô chính kỷ, có câu: “Đứa Kiểu Công Hãn sông sênh/ Nhủ nhau thầy tớ cứ thành Phong Châu”, chữ Hán Kiểu cũng viết  . Hoặc như bản thần tích Kiểu đại vương thượng đẳng thần ký lục, ký hiệu A.2625, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nội dung nói về sự tích Kiểu Công Hãn lúc chết được thờ ở làng Bái Dương, Nam Trực, Nam Định, có sắc phong từ thế kỷ XVII, chữ Kiểu cũng viết là  . Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1921), do Nxb. Văn hoá – Thông tin in lại, 2002, tr. 91, khi nói về 12 sứ quân, có ghi rõ chữ Hán Kiểu, và đọc đúng âm là Kiểu Công Hãn, Kiểu Thuận. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca, bản chữ nôm khắc in năm Duy Tân 2 (1908) của Quan Văn Đường, ký hiệu VNv.1 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tr. 24, đoạn kể về 12 sứ quân, cũng viết  (Kiểu Tam Chế, Kiểu Thuận). Nguyễn Đăng Thục trong bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập II (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998) dẫn theo Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (tài liệu dịch miền Nam), cũng viết đúng là KiểuTam Chế, Kiểu Thuận, (tr. 314, 315). Qua một số cứ liệu đã dẫn, cho thấy giới sử học hiện nay đã viết sai tên Kiểu thành Kiều, vốn có nguồn gốc sử liệu Hán Nôm. Có thể sai lầm này là do họ đã sử dụng nguồn sử liệu dịch, do những người dịch thuê không đảm bảo chất lượng khoa học, mà người sử dụng thì hoặc quá tin vào người dịch, hoặc còn hạn chế về trình độ Hán Nôm, nên đã không phát hiện được những chỗ dịch sai như thế. Trước đây nhiều năm, chúng tôi từng được giao quản lý công việc thuê dịch tài liệu Hán Nôm cho Viện Văn học, do đó, chúng tôi hiểu rất rõ công việc này. Theo chúng tôi, dầu sao thì đây cũng là những hạt sạn khó chấp nhận, khi biên soạn lịch sử văn hoá.
 K.T.H 
(1) Cả  GS. Trần Quốc Vượng cũng nhầm lẫn, có  thể do không có văn bản gốc. Cũng về bài từ này, ông lại viết “Bồ Tát man từ” và dịch là: Đền Bồ Tát người Man (Theo dòng lịch sử, Nxb. Văn hoá, 1996, tr. 24). Thực ra là điệu từ Bồ Tát Man như chúng tôi đã giải thích, chứ không phải ngôi đền, ông Vượng đã lầm chữ đồng âm: từ   (văn từ, ngôn ngữ) với chữ từ    (đền miếu).
* Phần chữ Hán do ban biên tập trang web tạm bổ sung, tuy đã có liên lạc với Gs Kiều Thu Hoạch và hỏi lại tác giả về từng chữ, nhưng cũng không dám chắc là hoàn toàn đúng vì chỉ được liên lạc với GS qua điện thoại. Nếu có gì sai sót mong GS và bạn đọc gần xa góp ý.

Theo Tạp chí Văn hóa Dân gian
spacer
do