Hai kiến trúc độc đáo này không chỉ nổi tiếng ở Sài Gòn mà còn có rất nhiều giai thoại mang màu sắc huyền bí, ly kỳ xung quanh.
Con rùa lớn yểm đuôi rồng
Hồ Con Rùa không phải là hồ tự nhiên, và giờ cũng không thấy con rùa nào. Hãy tìm hiểu lịch sử hình thành, gắn liền với sự thịnh suy của các “triều đại” cũ đất Sài thành.
Trước 1836: là cổng thành
Trước năm 1790, vị trí này là cổng thành Bát Quái (tiền thân của thành Gia Định) do Gia Long xây dựng. Sau năm 1833, Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt chiếm thành, chống lại triều đình. Đến năm 1836, quân triều đình lấy lại thành và phá bỏ để xây thành mới là Gia Định. Lúc này, cổng thành Bát Quái cũ trở thành nằm bên ngoài thành, trên đường xuống bến sông.
Trước 1836: là cổng thành
Trước năm 1790, vị trí này là cổng thành Bát Quái (tiền thân của thành Gia Định) do Gia Long xây dựng. Sau năm 1833, Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt chiếm thành, chống lại triều đình. Đến năm 1836, quân triều đình lấy lại thành và phá bỏ để xây thành mới là Gia Định. Lúc này, cổng thành Bát Quái cũ trở thành nằm bên ngoài thành, trên đường xuống bến sông.
Thời Pháp: là tháp nước
Người Pháp chiếm được thành Gia Định, san phẳng vào năm 1859 và tiến hành quy hoạch lại Thành phố. Vị trí Hồ Con Rùa hiện nay nằm ngay cuối con đường dẫn ra bến sông được đánh số 16. Trên con đường này, dinh Thống đốc đầu tiên được xây dựng. Năm1865, Thống đốc Nam Kỳ đặt tên con đường số 16 là đường Catinat. Một tháp nước cũng được xây dựng ở vị trí Hồ Con Rùa để cung cấp nước cho dân cư.
Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không đủ sức đáp ứng nhu cầu phát triển. Sau 1921: là giao lộ
1921, con đường Catinat được mở rộng nối dài đến đường Mayer (đường Võ Thị Sáu). Từ đó vị trí này trở thành giao lộ như ngày nay, với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre. Cắt giao lộ là đường Testard (Võ Văn Tần bây giờ) và đường Larclauze (Trần Cao Vân).
Tại vị trí này, người Pháp đã cho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp, người dân ở đây thường gọi là Công trường ba hình. Đến năm 1956 thì bị người Việt phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ trong quần thể tượng đài và được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ.
Hồ
Con Rùa có tên chính thức là Công trường Quốc tế (trước là Công trường
Chiến sĩ trận vong). Đây là nút giao của 3 con đường Võ Văn Tần, Phạm
Ngọc Thạch và Trần Cao Vân. Tuy không chính thức được xác nhận, nhưng
rất nhiều giai thoại cho rằng hồ Con Rùa được thiết kế thêm hồ phun nước
hình bát giác, con rùa đội bia. Và trụ đứng vươn lên cao ở giữa hồ
chính là biểu tượng bát quái đồ, Kim Quy cùng chiếc đại đinh đóng xuống
đất là để yểm đuôi rồng.
Các vị cao niên kinh qua nhiều giai đoạn
lịch sử thăng trầm của vùng đất này đã kể những giai thoại rằng, vốn là
người đa nghi và cuồng tín. Bởi vậy, sau khi nhậm chức tổng thống, ông
luôn trong tâm trạng bất an, lo lắng cho vị thế của mình. Vào năm 1967,
nghe tin có thầy địa lý cao tay ở Hong Kong, Thiệu liền cho người mời
sang Việt Nam để trấn yểm Dinh Độc Lập.
Thầy địa lý nghiên cứu đến mấy ngày sau rồi phán: “được
xây trên long mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng nằm cách đó
non 1 km, rơi vào vị trí Công trường Chiến sĩ trận vong. Cần phải dùng
một con rùa lớn trấn yểm đuôi rồng lại thì sự nghiệp của tổng thống mới
mong bền vững”.
Đây là hình chụp năm 1972 chúng ta còn thấy con rùa với cái bia trên lưng khắc tên những quốc gia đồng minh trong chiến tranh |
Vợ
chồng Nguyễn Văn Thiệu lập tức tin theo, cho xây hồ nước theo hình bát
giác, phỏng theo bát quái đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để
của người xưa. Hồ có 4 đường đi bộ xoắn ốc đều hướng đến khu vực trung
tâm là đài tưởng niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội bia đá.
Ngoài
ra, khu vực trung tâm còn có một cột cao mang hình cánh hoa xòe phía
trên. Cột cao này được xem như một chiếc đinh lớn đóng xuống giữa hồ để
ghim đuôi rồng lại. Năm 1972, Công trường Chiến trị trận vong được đổi
thành Công trường quốc tế. Vào đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá
hủy trong một vụ nổ. Tuy con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen gọi
là hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức.
Lại có giai thoại
khác liên quan đến việc hồ Con Rùa là sản phẩm trấn long mạch Sài Gòn.
Giai thoại này gắn liền với nguồn gốc xây Dinh Độc Lập do kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ thiết kế, lấy núi giả trong Thảo Cầm Viên làm bình phong,
sông Thị Nghè làm lưu thủy, tạo thế long chầu, hổ phục.
Người
Pháp biết rõ điều này, liền cho xây nhà thờ Đức Bà mặt trước bên phải
Dinh, hòng phá vỡ thế chữ Vương (gồm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Pastuer –
Phạm Ngọc Thạch hiện nay), thêm một chấm thành chữ Chủ nhằm phá luôn
long mạch của Dinh. Do vậy phải xây thêm hồ Con Rùa để phá thủy, làm
nước phun lên.
Nhưng còn một điều rất huyền diệu về hồ Con Rùa mà
rất ít người bình thường để ý đến, chỉ có các thầy phong thủy và các
kiến trúc sư học thêm bộ môn trấn yểm mới hiểu tận tường những bí ẩn
trong thiết kế tổng quan của Sài Gòn xưa. Đó là Bảo tàng Chứng tích
chiến tranh nằm ngay giữa ngã tư Võ Văn Tần – Lê Quý Đôn xưa chính là
chùa Khải Tường. Chùa Khải Tường là nơi chúa Nguyễn Phúc Ánh trên đường
bôn tẩu tránh sự truy đuổi của Tây Sơn có ghé qua tá túc. Và hoàng tử
Đảm – sau này trở thành vua Minh Mạng – đã được sinh tại nơi đây.
Tương
truyền, khi hoàng tử Đảm – chân mệnh đế vương – ra đời, chùa Khải Tường
đã phát ra hào quang đến 3 đêm liền. Nếu nhìn trên bản đồ chụp từ vệ
tinh thì chùa Khải Tường thẳng trục với Dinh Độc Lập và vuông góc với hồ
Con Rùa. Việc trấn yểm này còn liên quan đến ngũ hành, âm dương, phá
thủy, giả sơn mà các thầy chiêm tinh, địa lý nào cũng phải biết.
Do
đó, không phải ngẫu nhiên mà hồ Con Rùa nằm thẳng trục với nhà thờ Đức
Bà trên đường Phạm Ngọc Thạch, còn chùa Khải Tường thẳng trục Dinh Độc
Lập. Bốn công trình nổi tiếng này đều được xây dựng tại những địa điểm
mà xưa kia ít nhiều đều dính dáng đến long mạch của Sài Gòn và càng
không phải ngẫu nhiên mà tạo thành một hình vuông, nếu chiếu bóng sẽ trở
thành một đường thẳng.
Bát quái trận giam giữ linh hồn người đã khuất
Bát quái trận giam giữ linh hồn người đã khuất
Một
kiến trúc khác được cho là biểu tượng phong thủy thứ hai của Sài Gòn là
trại giam Chí Hòa. Toàn bộ khu trại giam này rộng khoảng 7 ha, được
người Pháp xây dựng từ những năm 1943.
Sở dĩ người ta cho rằng
khám Chí Hòa là một biểu tượng phong thủy dùng để trấn yểm Sài Gòn là
bởi kiến trúc của nó khá đặc biệt. Trại giam này được một kiến trúc sư
người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái. Khám Chí
Hòa cao 3 tầng lầu, có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc A, B,
C, D, E, F, G, H, tượng trưng cho 8 quẻ: càn, khôn, chấn, tốn, cẩn,
khảm, đoài, ly.
Đây là công trình được đánh giá khá cao, bởi nó
hòa hợp được những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp, vừa mang nét
huyền bí âm dương ngũ hành của phương Đông.
Khám Chí Hòa nhìn từ trên cao xuống |
Một
vài tài liệu nghiên cứu cho rằng, khám Chí Hòa được xây dựng dựa trân
bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Mỗi cạnh
của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín phía ngoài, còn phía
trong toàn song sắt. Toàn khu trại giam chỉ có một cửa vào, người ta gọi
đó là cửa Tử. Qua cửa này là hệ thống đường hầm.
Trại giam Chí Hòa, được người Pháp cho xây dựng từ
năm 1943. Kiến trúc của Khám Chí Hoà rất đặc biệt, do một kiến trúc sư
người Nhật thiết kế và xây dựng theo ngũ hành bát quái. Nó cao ba tầng
lầu có hình bát giác với 8 cạnh đều, 8 góc A, B, C, D, E, F, G, H, tượng
trưng cho 8 quẻ trong Kinh dịch.
Điều đặc biệt
nhất của khám Chí Hòa là tất cả các lối di chuyển bên trong đều được
thiết kế theo cung vị. Chính vì thế, người bình thường khi bước qua cửa
Tử sẽ mất hết phương hướng, như lạc vào một mê cung trận đồ, không thể
tìm thấy lối ra. Chính giữa hình bát giác là một sân rộng cũng được
thiết kế theo hình bát quái đồ, với 8 khu hình tam giác chụm vào nhau.
Ngay
tâm của bát quái trận đồ cũng có một đài phu nước như cột cao của hồ
Con Rùa đã nói ở phần trên. Nhìn từ trên cao, đài phun nước này có hình
dáng như một thanh gươm đâm thẳng xuống đất. Những giai thoại về khám
Chí Hòa đều ghi lại vai trò mấu chốt của thanh gươm này và gọi tên nó là
“tru tiên kiếm”.
Tru tiên kiếm trấn yểm khám Chí Hòa, khiến
những tên tội phạm dù có xảo quyệt, tinh ranh đến đâu cũng không thể
trốn được. Nếu tru tiên kiếm bị nhổ lên thì toàn bộ bát quái trận đồ
được thiết kế công phu sẽ tự vỡ.
Chính lối kiến trúc áp dụng bát
quái trận đồ nhuốm màu sắc huyền linh này mà người ta gọi lối vào duy
nhất của khám Chí Hòa là cửa Tử. Nghĩa là đã vào rồi thì không có cách
nào để nhận biết đường ra nếu không thông lý số, kinh dịch vốn là môn
khoa học không phải bất kỳ ai cũng nghiên cứu và tiếp nhận được.
Người
ta xem khám Chí Hòa là một bát quái trận đồ giữa lòng Sài Gòn, bởi lịch
sử khám Chí Hòa chỉ có 2 trường hợp vượt ngục thành công. Một là của
người tù cộng sản vào năm 1945, và hai là của tên giang hồ khét tiếng
Phước “tám ngón” sau đó 50 năm.
Hiện tại, bát quái trận đồ đã bị
san bằng một nóc nhà cũng bởi tính quá hoàn hảo của nó. Trước kia, các
nhà nghiên cứu kinh dịch, lý số khi nhìn vào khám Chí Hòa đều lắc đầu
bởi âm binh, chướng khí tại nơi này quá nặng. Vì những tù nhân chẳng may
qua đời ở đây thì linh hồn bị bát quái trận đồ giam giữ, không tài nào
thoát ra được.
Không biết thật giả ra sao, nhưng chính tổng thống
Ngô Đình Diệm cũng tin vào điều này. Ông Diệm đã cho mời một thầy địa
lý cao tay nhằm hóa giải một phần trận đồ. Và sau đó, nóc nhà khu GF của
bát quái trận đồ vô cùng hoàn hảo đã bị san bằng. Thuận theo ý trời,
lòng người, ngoài cửa Tử, cửa Sanh đã được mở để cho các linh hồn được
bay đi và sớm siêu thoát.
Có thể những truyền thuyết, giai thoại
nhuốm màu huyền linh, kỳ bí nhưng xét về khía cạnh khoa học ngày nay thì
không có thật. Nhưng cũng phải thừa nhận, khám Chí Hòa là một bát quái
trận đồ hoàn hảo, ở đó giống như một mê cung đồ khiến ta mất hết mọi
khái niệm về phương hướng lẫn không gian và thời gian.